Ngày 11/10: Thánh Phê-rô Lê Tùy – Linh mục (1773 – 1833)
Hằng năm, đến ngày 11-10, giáo dân Hà Nội và các xứ lân cận kéo nhau rất đông về làng Bằng Sở để mừng lễ Cha Thánh Tùy. Bầu không khí sốt sắng tưng bừng, đây là ngày hội lớn của làng, cả làng nghỉ việc mừng lễ và đón tiếp khách các nơi về dự lễ.
Cha Thánh Lê Tùy là ai? Cha là người mở đầu thế hệ chứng nhân anh hùng của Chúa Kitô thế kỷ XIX.
Sinh trong thời cấm cách
Cha sinh năm 1773, trong một gia đình trung nông bình thường ở làng Bằng Sở, trước kia làng này thuộc xứ Yên Duyên nay thuộc giáo xứ Bằng Sở, Tổng Giáo phận Hà Nội.
Năm ấy là năm hai chân phúc Cát-ta-nê-đa[1] (Gia) và Vi-xen-tê Liêm nhận triều thiên tử đạo ở thành Thăng Long đời Chúa Trịnh Sâm. Dù thế, khi người còn nhỏ, cha mẹ người đã cho con vào nhà Đức Chúa Trời, dâng mình cho Chúa, sẵn sàng đón nhận mọi hy sinh trong sứ mệnh tông đồ.
Sau nhiều năm học tập ở Chủng viện Kẻ Vĩnh tỉnh Nam Định, thày Tùy được phong chức phó tế và được cử đi giúp Đức Cha Lơ-mốt[2] (Hậu), phó Giám mục địa phận Tây Đàng Ngoài. Thày hoạt động truyền giáo trong tỉnh Nghệ An.
Thày đạo đức khôn ngoan, thông thái, thông thạo tiếng La-tinh và chữ Nho. Ít lâu sau, Thày được phong chức linh mục và được cử đi làm cha phó xứ Đông Thành (Chân Lộc) rồi làm chính xứ Nam Đường thuộc tỉnh Nghệ An. Cha là một linh mục rất nhiệt thành hăng hái, đạo đức vững chắc, tính tình hiền hòa.
Đức Cha Lơ-mốt đã có lần nói rằng: “Không ai là không bằng lòng với Cha Tùy”, đó là lời chứng nhận và khen ngợi nhân đức hiền từ của một linh mục Việt Nam.
Không sợ chết
Năm thứ 14 đời vua Minh Mệnh có chiếu chỉ cấm đạo ngặt, các quan Nghệ An sai một số tay chân là những người ghét đạo đi do thám, rình mò, bắt bớ các linh mục.
Ngày đầu tháng 8 năm 1833, Cha Tùy đi xức dầu cho một bệnh nhân gần chết ở họ Thành Trai, một họ đạo nhỏ nằm giữa các làng ngoại giáo, Cha bị bắt và người ta giải Cha nộp cho quan huyện sở tại để lĩnh tiền thưởng. Giáo dân biết tin đến quan huyện xin nộp tiền chuộc Cha, quan Huyện Thanh Phong bằng lòng nhưng với điều kiện Cha phải nhận mình là thày thuốc đi thăm bệnh nhân.
Cha Tùy cương quyết từ chối lời khai man ấy và bị giải về tỉnh Nghệ An.
Dù Cha đã 60 tuổi, người ta cũng đóng gông và giam Cha trong ngục.
Mấy ngày sau, quan án đòi Cha ra công đường. Quan hỏi: “Ông có phải là đạo trưởng Gia-tô không?”
– Phải, tôi là đạo trưởng đạo Thiên Chúa.
Quan liền nói: “Này, ông hãy nghe tôi. Ông đã già rồi, ai thấy ông bị bắt cũng động lòng thương hại ông. Không ai muốn ông phải kết án tử hình. Tôi cũng không muốn thế, nhưng phép nước rất ngặt, vậy ông hãy làm giấy khai mình là thày thuốc, như thế tôi sẽ cứu ông khỏi chết nhục hình. Ông không sợ chết sao?”
Cha Tùy điềm đạm trả lời: “Cám ơn quan đã muốn cứu tôi, nhưng lương tâm một vị đạo trưởng Thiên Chúa không cho phép tôi làm theo ý quan. Phần tôi, tôi không sợ chết và chết cách nào tôi cũng không ngại. Vì ai cũng phải chết, dù chết trên giường đệm êm ấm chung quanh có các người thân thuộc, hay chết cô đơn một mình trong rừng vắng, trong tù ngục, dù bị án voi dày, giáo gươm đâm chém, dù bị tùng xẻo lột da cũng là chết, cho nên tôi không sợ chết”.
Quan trọng kính tuổi già không nỡ tra tấn đánh đập, truyền giải Cha về ngục. Trong ba tháng rưỡi bị giam giữ, Cha được mọi người yêu mến. Các tù nhân thường nói với nhau rằng: “Một người hiền lành đức độ như vậy mà phải gông cùm giam giữ như một tên gian ác, thật là bất công”.
Cha còn bị tra hỏi và dụ dỗ nhiều lần, nhưng Cha vẫn một mực nhận mình là đạo trưởng đạo Thiên Chúa.
Các quan làm sớ về kinh không buộc tội gắt gao, hy vọng tội nhân chỉ phải nộp tiền phạt vì luật nước cấm không được xử tử những người từ 60 tuổi trở lên.
Vua ở trên luật
Nhưng vua Minh Mệnh ghét đạo, bất chấp những điều luật nhân đạo là truyền thống của dân tộc
Ngày 10-10-1833, các quan tỉnh Nghệ An nhận được lệnh vua: “Tên Lê Tùy đã xưng là đạo trưởng và truyền tả đạo cho dân, phải trảm quyết”.
Một thư ký báo tin ấy cho một giáo hữu. Người này chạy đến nhà giam cho Cha Tùy biết: “Thưa cụ, con đến lạy cụ, xin cụ dọn mình vì đã đến giờ Chúa gọi Cụ”.
Cha Tùy lộ vẻ vui mừng và nói: “Thật tôi không dám trông đợi được ơn cao trọng này, Chúa đã ban cho tôi, tôi cảm tạ ngợi khen Chúa”.
Cha dùng bữa tối như thường lệ, rồi ở lặng một mình cầu nguyện, không tiếp ai để dọn mình về với Chúa.
Sáng hôm sau ngày 11-10, ngày lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Cha phải điệu ra pháp trường ở chợ Quân Ban để chịu xử. Cha vui vẻ hớn hở như người đi dự hội đến nỗi quan quân và dân chúng đều nói: “Chưa bao giờ họ thấy ai đi chịu xử mà can đảm như thế”.
Đến pháp trường, Cha quỳ vào chiếu một giáo hữu đã trải sẵn. Gần chỗ Cha quỳ, lính đóng một thẻ gỗ viết bằng chữ Hán, nghĩa như sau: “Tên Tùy, Lê Tùy quê ở xã Bằng Sở, tổng Ninh Xã, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, Tỉnh Hà Nội. Can phạm là người bản quốc, từ lâu theo thói dị đoan, xưng mình là đạo trưởng, lẩn trốn trong dân chúng để truyền tả đạo. Bị bắt và tra xét kỹ càng, tên này bất khẳng khóa quá, vi phạm luật nước. Lệnh vua phải xử chém ngay để răn kẻ khác”.
(Minh Mệnh năm thứ 14, tháng 8 ngày 28).
Đây chính là chứng chỉ tử đạo của Cha Thánh Tùy. Cha phải xử chém ngày 11-10-1833.
Các dấu lạ
Cha quỳ trên chiếu cầm trí cầu nguyện. Ông Bê-na đô Thu là một giáo hữu thân cận với Cha đến xin quan cho phép Cha tiếp tục cầu nguyện thêm. Quan bảo: “Được, khi xong, phải báo cho tôi ngay”. Rồi quan đưa cho Cha mấy quan tiền mà theo tục lệ vua ban cho các tội nhân mua thức ăn hay uống rượu trước khi bị xử. Cha không nhận và tiếp tục cầu nguyện một lúc nữa.
Khi Cha đã dọn mình xong, ông Thu đến lạy Cha bốn lạy và nói: “Bây giờ Cụ sắp được về nơi vĩnh phúc, nơi Cụ đã trông đợi bấy lâu, phần con, còn phải ở lại nơi đây, xin Cụ nhớ đến con”. Đấng tử đạo đáp: “Con hãy vững lòng bền chí, rồi con cũng được phần thưởng muôn đời”.
Cha cũng lạy ông bốn lạy để đáp lễ, mọi người trông thấy cảnh tượng ấy đều bùi ngùi cảm động. Rồi Cha nói: “Tôi đã sẵn sàng”.
Tiếng thanh la, tiếng trống nổi lên. Một người lính vung gươm, đầu vị tử đạo rơi xuống và linh hồn Cha bay về trời hưởng phúc vô cùng. Các giáo hữu xin xác Cha đem về an táng tại nhà nguyện Tràng Nua.
Một chứng nhân trong hồ sơ phong chân phúc đã thuật lại rằng: lúc ấy trời đang quang đãng bỗng mây đen kéo đến, bầu trời u ám, mọi người lấy làm lạ nói với nhau rằng: “Ông này linh thiêng làm sao mà trời tối sầm lại”.
Khi Cha bị bắt giam trong ngục, Cha thường cầu xin Chúa và Đức Mẹ cho nhà quê Cha biết tin, nhưng vì đường xá xa xôi, lại đang thời kỳ cấm cách ngặt nên bổn đạo phải trốn tránh không dám đi lại.
Khi Cha được phúc tử đạo rồi, Cha hay làm phép lạ. Chính hôm Cha bị xử, ở làng Bằng Sở quê Cha, động đất dữ dội, ao hồ, nước sông nổi sóng như vũ bão, còn các làng chung quanh bình an yên ổn. Mọi người trong làng sợ hãi không hiểu điềm gì.
Cách ba hôm sau, một lái buôn ở Nghệ An ra, ngủ trọ ở làng Bằng Sở kể truyện rằng: Hồi này trong tỉnh Nghệ An các quan bắt đạo dữ tợn lắm và đang tầm nã các đạo trưởng Tây và đạo trưởng Nam, cách đây mấy hôm có đạo trưởng Tùy phải trảm quyết, lúc ấy quê Cha mới biết tin, mọi người khóc lóc thảm thiết.
Đến sau đưa xác Cha về Nam Khê để các giáo hữu toàn quốc đến kính viếng. Sau lại đem xác Cha về xứ Yên Duyên, cả làng Bằng Sở lên rước xác Cha về chính quê là Bằng Sở.
Mấy năm sau khi cải táng Cha, có sự lạ này là xác Cha nằm trong nước trong vắt, xông hương thơm ngào ngạt.
Kẻ ốm đau bệnh tật hay gặp sự gian nan khốn khó chạy đến xin Cha giúp đỡ đều được như ý. Chính Đức Cha Mát-xông[3] đã làm chứng điều đó và ông Bê-na-đô là người thân cận của Cha (đã kể ở trên) cũng quả quyết nhiều bệnh nhân tuyệt vọng được khỏi bệnh nhờ ơn Cha.
Về sau tin tức đồn thổi khắp nơi là Cha hay làm phép lạ, nên người ta đến khấn đông lắm; cha xứ và dân làng Bằng Sở chạm trổ một toà bằng gỗ, sơn son thiếp vàng rất đẹp, đặt trên bàn thờ cạnh và để xương người lên tòa ấy. Từ đó, lại không có mấy người đến xin khấn như trước nữa, và nếu có ai đến xin khấn sự gì mà thắp nến, nến liền tắt.
Sau cha xứ và dân làng Bằng Sở cho rằng: có lẽ Cha không ưng để xương thánh Cha ở nhà tòa đặt ngang với cung thánh, nên cha xứ và dân làng lại cho xương thánh xuống gầm bàn thờ như trước. Từ ngày ấy người ta lại nô nức đến kêu xin Cha phù hộ và khi thắp nến không còn bị tắt nữa.
Đức Thánh Cha Lê-ô XIII đã phong chân phúc cho người ngày 27-5-1900.
Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong người lên bậc hiển thánh ngày 19-6-1988.
Ở làng Bằng Sở quê Cha mừng lễ Cha ngày 24-11 là ngày rước hài cốt Cha về quê nhà. Dân làng đã làm một bài vãn gọi là vãn Cha Thánh Tùy kể lại công Đức cha, cái chết anh hùng xưng đạo của Cha và hằng năm đọc lại cho con cháu nghe để noi gương sáng của Cha.
Vãn Thánh Phê-rô Tùy
Kính mừng Cha Thánh Tùy danh thánh
Đức nghiệp dường sánh với non cao
Công phu tày bể rộng biết bao
Trí ngu kiện lường sao cho xiết
Từ sơ sinh giữ mình trinh khiết
Ơn Chúa thương cho biết ý Người
Nên khấn mình trinh khiết trọn đời
Lại đi giảng mọi nơi ngoại đạo
Đức tính người khôn ngoan mạnh bạo
Dẫu gặp thời cấm đạo Chúa Thiên
Dốc một lòng chăn giữ con chiên
Lại đi giảng trong miền tỉnh Nghệ
Nỗi biệt ly sa di xiết kể
Cũng vâng theo thánh ý mọi bề
Lại đành lòng ly biệt quán quê
Khuyên kẻ ngoại trở về đạo chính
Cụ giáo hóa cương thường nghiêm chỉnh
Dủ khuyên răn dĩ tính trừ mê
Để mọi người thờ Chúa một bề
Sau hưởng phúc chính quê chầu Chúa
Lời giảng giải sánh cùng thợ rũa
Ơn tác thành ngọc rũa lò chai
Lòng Thánh Nhân vàng đã chùi mài
Ơn vũ lộ hoa mai thơm phức
Người thêm tuổi càng thêm phúc đức
Vì đạo lành ra sức giảng khuyên
Kẻ lầm lỗi nên sạch vẹn tuyền
Kẻ cơ cận bằng yên hỷ lạc
Đức vũ hóa đượm nhuần lưu loát
Đoàn chiên lành bóng mát tựa nương
Trông ơn người che chở một đường
Cho khỏi phải giò dương lưới mắc
Được êm ấm đôi đường vững chắc
Dẫu gặp thời gió giật sương sa
Nương cây cao bóng cả rườm rà
Lại được thưởng biết bao hoa quả
Lũ sói rừng lòng ghen chẳng thỏa
Chước quỷ ma quấy phá đoàn chiên
Từ năm Minh Mệnh thập tứ niên
———————————————————
Bắt trưởng đạo giáo đồ lưu lạc
Bắt kẻ chăn đoàn chiên nhao nhác
Bắt mọi người phân xáp các nơi
Lại gia hình giết hết mọi người
Cùng cấm cốc chết tươi xiết kể
Cụ Thánh Tùy giảng trong tỉnh Nghệ
Phải một khi đi kẻ liệt về.
Lũ quân do đủ mọi tính mê.
Liền bắt lấy đem về sỉ nhục
Các con chiên xin người cho thục
Người chối rằng là phúc cho cha
Hỡi chúng con hãy ở thuận hoà
Cha về hưởng trên toà thiên quốc
Các quan tưởng người là thầy thuốc
Người xưng mình chẳng thuộc lương y
Chính tôi là trưởng đạo Bắc Kỳ
Hà Nội tỉnh Thanh Trì Bằng Sở
———————————————————
Ở trong ngục gông cùm canh giữ
Vẫn tươi cười xử sự nghiêm hoà
Các lính canh tôn kính là cha
Lại khen người là quân tử
Ba tháng rưỡi quan tâu án xử
Sớ vua ra truyền xử danh Tuỳ
Dám xưng mình trưởng đạo Bắc Kỳ
Trẫm truyền xử y như án cứ
Năm dương lịnh 11 tháng tám
Nên hội này là thảm sầu bi
Thảm thiết thay thương cụ Thánh Tuỳ
Sáu mươi tuổi phải đi chịu xử
Đương khi ấy phải ra chịu xử
Vẫn cam công coi giữ đoàn chiên
Dốc một lòng theo ý Chúa Thiên
Song chỉ những sầu phiền than thở
Bởi quê hương cách trở xa xôi
Nỗi biệt ly than thở cùng ai
Những âm thầm cầu khẩn thiên thai
Hằng xin Chúa cho ngoài quê biết
Các quân quan đem người đi giết
Nó lấy cưa mà xiết gông xiềng
Rồi người quỳ cúi cổ nghiêng nghiêng
Dứt ba tiếng cồng gươm liền thoát
Những mạch máu chảy ra lưu loát
Các con chiên xin xác đem về
Xếp những đồ xiềng tói nặng nề
Liệm xác đoạn đem về Trang Lửa
Cùng ngày ấy trong làng Bằng Sở
Đường xa xôi cách trở biệt ly
Thật bản hương quê cụ Thánh Tuỳ
Liền động đất như kỳ tận thế
Nước các ao vũ như sóng bể
Chẳng khác gì như thể phong ba
Thật trong làng khắp hết trẻ già
Vì chẳng hiểu đều là sợ hãi
Cách mấy ngày gặp người thương mại
Nó xưng mình quán tại Nghệ An
Vua mới truyền cấm đạo rõ ràng
Những tầm nã Tây Nam đạo trưởng
Bắt được ai thì vua liền thưởng
Độ vừa rồi có trưởng đạo Tuỳ
Nó bắt người giam chấp một khi
Ba tháng rưỡi đủ kỳ luận giết
Hỡi cha ơi thật là thảm thiết
Tình cha con ly biệt dường này
Cha khuyên răn những sự thảo ngay
Giảng đạo chính sao rầy nên thế
Ngắm xác thánh táng trong tỉnh Nghệ
Nỗi biệt ly cách bể cùng sông
Khúc nhôi này lục bát thành tâm
Lòng đơn bạc âm thầm thảm thiết
Ngắm xác thánh dâng mình trinh khiết
Phép lạ người kể xiết là bao
Kẻ âu sầu bệnh tật liệt lào
Công đức ấy non cao đáng thánh
Rầy Toà Thánh lại phong chức thánh
Rước xác người về cảnh Nam Khê
Khắp nước Nam tôn kính mọi bề
Rồi mới rước người về Bằng Sở
Khắp trẻ già đều là hớn hở
Biết lấy gì mừng rỡ cho đang
Sức vội vàng chưa kịp sửa sang
Lời quê kịch hai hàng chúc tụng
Giọng nôm na ngâm nga vài phút
Chúc mừng rằng vạn phúc liên liên
Rước mừng người từ dưới Yên Duyên
Khắp cả xã rước lên Bằng Sở
Hết mọi người trẻ già nấc nở
Biết lấy gì mừng rỡ xiết bao
Ngắm xác người cao trọng dường nào
Ấy mới biết thánh danh thanh thánh Rầy
Toà Thánh lại phong chức thánh
Thảm sầu này nên cảnh rất vui
Đã sáu mươi tám năm rõ ràng
Còn nhớ đến những người công chính
Ấy mới biết đạo nào tà chính
Khắp nước nam tôn kính mừng người
Nhưng nay mừng khắp hết mọi nơi
Đến mừng lễ mọi người chúc kính
Lạy Thánh Cha chung thiêng đức tính
Cảnh trâu hiền đức tính quang trân
Phần con mọn cải xác thành tâm
Lạy Thánh Cha cao đại vĩnh phúc
Xin tưởng về những lúc gian nan
Lại xin về những lúc lầm than
Cần đạo chính tìm đàn chiên lạc
Đức nghiệp cha lưu loát khôn lừng
Xin tưởng về đến chốn bần hương
Được trường cửu phú cường khảng khái.
[1] Jacinto Castaneda.
[2] Lemothe.
[3] Masson
Đức Hồng Y Giu-se Ma-ri-a Trịnh Văn Căn