THÁNH MARIA, MẸ THIÊN CHÚA. Lễ trọng

“Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy,
và suy đi nghĩ lại trong lòng”.
(Lc 2,19)

 

BÀI ĐỌC I: Ds 6, 22-27

“Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng”

Trích sách Dân Số.

Chúa phán cùng Môsê rằng: “Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel; hãy nói với chúng thế này: ‘Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con’. Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng”.

Đó là lời Chúa.

 

ĐÁP CA: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8

Đáp: Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con (c. 2a).

1) Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. – Đáp.

2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. – Đáp.

3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài; thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa ban phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. – Đáp.

 

BÀI ĐỌC II: Gl 4, 4-7

“Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em được làm con, Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu lên rằng: “Abba!”, nghĩa là “Lạy Cha!” Thế nên, bạn không còn phải là tôi tớ, nhưng là con; mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa.

Đó là lời Chúa.

 

Tin mừng: Lc 2, 16-21

16 Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. 18 Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. 19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.

20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.

21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.

 

LỄ ĐỨC MARIA MẸ THIÊN CHÚA

Bài giảng của Đức Hồng Y Phaolô Giuse

          Tuần trước chúng ta kính mừng lễ Thiên Chúa Giáng Sinh. Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.

          Đức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tín điều buộc mọi người phải tin cho được rỗi linh hồn. Năm 431, nghĩa là cách đây hơn một ngàn năm trăm năm, Công đồng Ê-phê-sô đã tuyên bố tín điều đó như sau:

          “Ai không tuyên xưng Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa là Thiên Chúa thật, và do đó không tuyên xưng Đức Trinh Nữ thực sự là Mẹ Thiên Chúa. Bởi Người đã sinh ra về phần xác Ngôi Hai nhập thể, phát xuất từ Thiên Chúa. Ai chối không tuyên xưng như vậy thì mắc vạ tuyệt thông”.

          Căn cứ lời tuyên bố trên đây của Giáo Hội, chúng ta phải hiểu thế nào về tín điều Đức Maria Mẹ Thiên Chúa ?- Khi nói: Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội không chủ trương rằng: Đức Mẹ sinh ra bản tính Thiên Chúa, bởi vì xét về bản tính, Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu, nghĩa là tự mình mà có, là đầu cội rễ mọi sự, là cùng sau hết mọi loài, đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật, sáng tạo nên cả Đức Mẹ Maria.

          Nhưng khi nói: Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội có ý dạy ta hai điều này:

          1). Đức Maria là Mẹ thực sự, không phải chỉ là mẹ nhận, mẹ nuôi, bởi vì Ngài đã thực sự cung cấp khí huyết mình để tạo nên thân xác Đức Giê-su như bất cứ bà mẹ nào thụ thai và sinh con mình.

          2). Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, nghĩa là Ngài đã thụ thai và sinh ra Ngôi Hai không phải về bản tính Thiên Chúa, nhưng về bản tính loài người mà Ngôi Hai đã mặc lấy.

          Đức Maria Mẹ Thiên Chúa cũng là một mầu nhiệm, trí khôn ta không thể suy luận mà biết được, chúng ta chỉ biết và hiểu được phần nào là do Thiên Chúa đã mạc khải và Giáo Hội truyền dạy mà thôi.

          Đọc Cựu Ước ta thấy 700 năm về trước khi Chúa Giê-su ra đời, Thiên Chúa đã dùng tiên tri Isaia mà loan báo mầu nhiệm Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa như sau: “Rồi đây, một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, Ngài sẽ đặt tên cho con trẻ đó là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7,14). “Một con trẻ đã sinh ra cho chúng ta, một con trai đã ban xuống cho chúng ta: Người sẽ ghé vai gánh lấy vương quyền. Người ta sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu, là Thiên Chúa anh dũng, là Cha vĩnh cửu, là Hoàng Tử Thái Bình…” (Is 9,5).

          Trong Tân ước, theo lời Phúc âm, khi đến truyền tin cho Đức Maria: “Thiên Thần Gabriel kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà sẽ thụ thai và sinh con, và Bà sẽ đặt tên cho con trẻ là Giê-su. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Chí Tôn”. – Đức Maria thưa với Thiên Thần: “Việc đó xẩy ra thế nào được vì tôi không biết đến người nam”. – Thiên Thần đáp: “Chúa thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà… Vì thế con trẻ bà sinh ra là Con Thiên Chúa”.

          Khi Đức Mẹ đi viếng Bà Isave, vừa nghe lời Đức Mẹ chào, Bà Isave cảm động nói: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi”. Được Thánh Thần soi sáng, Bà Isave gọi Đức Maria là Mẹ Chúa tôi, nghĩa là Mẹ Thiên Chúa. Qua lời đó, ta có thể nói: Bà Isave là người đầu tiên công khai phẩm chức làm Mẹ Thiên Chúa nơi Đức Maria.

          Thánh Phao-lô dạy về vấn đề này như sau: “Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống sinh bởi người phụ nữ” ( Gal 4,4). Các Thánh Giáo phụ cũng nhất trí tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Thánh Gregorio Mazianze nói: “Người nào không nhìn nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, thì kẻ ấy không được thông công vào bản tính Thiên Chúa”. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa là một phẩm chức cao trọng tuyệt vời.

          Một loài thụ tạo nào càng gần Thiên Chúa thì càng cao trọng. Trong thực tế đừng kể bản tính loài người nơi Đức Giê-su thì Đức Maria được gần Thiên Chúa hơn tất cả các loài thụ tạo. Bởi đó, Đức Maria cao trọng hơn mọi Thần Thánh trên trời và mọi người dưới thế. Vì thế, Mẹ sinh ra Chúa Giê-su, Mẹ Maria là thân nhân huyết nhục với Con Thiên Chúa về bản tính loài người, rồi qua Thiên Chúa Con, Người cũng được hiệp nhất với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần một cách thân mật quá trí tưởng tượng. Bởi Người đã được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa và được đầy ân sủng, nên Giáo Hội tôn kính Người như Nữ Tử yêu dấu của Đức Chúa Cha và Hiền Thê của Chúa Thánh Thần.

          Phẩm chức Mẹ Thiên Chúa cũng là lý do và căn nguyên mọi ân huệ đặc biệt khác Chúa ban cho Đức Mẹ. Vì được làm Mẹ Thiên Chúa, nên Đức Maria được vô nhiễm nguyên tội, được tràn đầy thánh sủng, được trọn đời trinh khiết. Vì là Mẹ Thiên Chúa, nên Đức Maria được đặt làm trung gian các ơn Thiên Chúa, được lên trời cả hồn lẫn xác, được tuyên dương làm Nữ vương vũ trụ, làm Đấng trung gian  ban phát mọi ơn Chúa cho loài người.

          Phẩm chức Mẹ Thiên Chúa đối với ta thế nào ? – Khi nói đến phẩm chức Mẹ Thiên Chúa, có người nghĩ rằng đó là phẩm chức rất cao sang, nhưng chỉ là ơn riêng, Chúa ban cho Đức Mẹ một mình Người được hưởng vinh quang, còn không có liên hệ gì gần gũi thân mật với chúng ta cả. Ai nghĩ thế là sai lầm nghiêm trọng. Ta có thể nói: Đức Maria được làm Mẹ Thiên Chúa vì chúng ta và cho chúng ta, nghĩa là để Người trở nên Mẹ thật chúng ta trong ân sủng và có thể làm ích cho chúng ta hơn. Thực vậy,  xác chúng ta sống được nhờ có linh hồn, không có linh hồn thì xác chết, còn linh hồn chúng ta thì sống nhờ thánh sủng, không có ơn thánh sủng linh hồn ta nên quái gở như chết trước mặt Chúa. Ơn thánh sủng bởi đâu mà ra ? – Bởi Chúa Giê-su từ trời đem xuống cho ta, mà Chúa Giê-su xuống với ta qua Đức Maria. Vì thế,  khi sinh ra Đức Giê-su là nguồn mạch ơn thánh sủng thì Đức Maria cũng trở nên Mẹ thật chúng ta phần linh hồn, chứ không phải là mẹ nhận như các bà mẹ nuôi thế gian.

          Bà mẹ nào sinh con thì cũng sinh cả đầu, cả chân tay và các phần mình của đứa con. Chúa Giê-su là Đầu, chúng ta là thân thể mầu nhiệm Chúa. Ơn thánh sủng như nhựa sống thần linh lưu thông từ Chúa xuống linh hồn chúng ta, làm cho chúng ta hiệp nhất  với Chúa như Đầu với chân tay. Đức Mẹ sinh ra Chúa là Đầu thì tất nhiên Người cũng là Mẹ chúng ta là phần thân thể mầu nhiệm Chúa. Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan và quyền phép vô cùng, khi chọn ai lên phẩm chức nào, trao cho ai sứ  mệnh gì, thì Chúa cũng ban cho người ấy có đủ tư cách, khả năng và những ơn riêng để chu toàn sứ mệnh. Khi tuyển chọn Đức Maria  làm Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta trong ân sủng, thì Chúa cũng ban cho Đức Mẹ một tâm hồn từ mẫu, quảng đại bao la để Người có thể ôm lấy tất cả nhân loại trong một tình âu yếm thiết tha hơn bất cứ một người mẹ nào yêu dấu con mình. Hơn nữa, vì là Mẹ Thiên Chúa, nên Đức Mẹ có một quyền năng hầu như vô giới hạn để cứu giúp chúng ta. Thánh Bê-na-đi-nô khẳng định rằng: “Đức Maria không thể ngồi nhìn một sự đau khổ nào mà Người không cảm thương”. Xưa trong tiệc cưới Cana, dù chủ nhà không kêu cầu, Đức Mẹ cũng can thiệp xin Chúa cứu giúp, thì ngày nay Đức Mẹ càng thương xót ta hơn, nếu ta tin cậy cầu xin Người.

          Bà thánh Brigitta một lần kia nhìn thấy Chúa Giê-su nói với Đức Mẹ rằng: “Mẹ hãy xin bất cứ sự gì Mẹ muốn, khi xưa ở trần gian Mẹ không từ chối con điều gì, thì nay ở trên trời, con cũng không từ chối Mẹ điều gì”.

          Sau cùng, Đức Maria Mẹ Thiên Chúa cũng là niềm an ủi lớn lao cho giới phụ nữ. Theo quan niệm của nhiều dân tộc xưa nay, giới phụ nữ thường bị khinh dể. Sự khinh dể đó được nói lên qua những khẩu hiệu như: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, nghĩa là nhà có một con trai kể là có con, nhà có mười con gái cũng kể là không con. Nhưng từ khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người sinh ra bởi người nữ, từ khi một người trong nữ giới được chọn lên phẩm chức Mẹ Thiên Chúa, từ khi ấy không còn ai dám khinh giới nữ nữa.  Như vậy là không phải đến ngày nay vấn đề giải phóng phụ nữ mới được đặt ra, nhưng đã bắt nguồn từ hai ngàn năm nay với Đạo Chúa Ki-tô rồi.

          Để kết luận, chúng ta hãy dùng lời Giáo Hội trong kinh Kính Mừng mà kêu xin Đức Mẹ rằng: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử.

          Lạy Mẹ Maria trong lời trên đây, Giáo Hội đối chiếu hai bên khác biệt nhau một trời một vực: Bên trên là Đức Mẹ trong sạch, thánh thiện, huy hoàng như mặt trăng mới mọc, vầng hồng mới hé, cao sang tuyệt vời; bên dưới là chúng con hèn hạ khốn khổ, ngụp lặn trong vực sâu tội lỗi. Sự đối chiếu đó nhằm đánh động lòng từ bi thương xót của Đức Mẹ và như nhắc với Mẹ rằng: Chúng con hèn hạ tội lỗi, nhưng không phải vì thế Mẹ khinh chê chúng con. Trái lại, vì chúng con hèn hạ tội lỗi, nên Chúa mới xuống thế làm người để cứu chuộc chúng con và do đó Mẹ mới được chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Bởi đấy, chúng con có thể nại đến thân phận tội lỗi chúng con để xin Mẹ thương xót.

          Xin Mẹ cầu cho chúng con khi nay, nghĩa là trong những ngày hiện tại chúng con đang sống, nếu cái khi nay của chúng con bằng yên vô sự và hoàn toàn hạnh phúc như cái khi nay của các Thánh trên trời, thì chúng con không phải xin Mẹ hộ giúp. Nhưng cái khi nay của chúng con đầy gian khổ: khổ vì ốm đau tật bệnh, khổ vì gia đình lủng củng thiếu đoàn kết, khổ vì làm ăn thất bại, kinh tế gay go, khổ vì người nọ người kia gây mâu thuẫn và làm hại chúng con. Tắt rằng cái khi nay của chúng con còn chồng chất bao vấn đề phức tạp chưa biết làm sao, giải quyết thế nào, chỉ còn một cách là đưa mắt nhìn lên Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng con, xin Mẹ chuyển cầu cho con cái tội lỗi đang đặt hết niềm tin tưởng nơi Mẹ.

          Còn giờ lâm tử của chúng con, nghĩa là giờ chúng con gần chết, giờ đó càng đầy đe dọa và bấp bênh, chúng con không biết mình chết khi nào, chết ở đâu, chết cách nào, chết trên giường bệnh giữa những người thân yêu mật thiết, hay chết đường, chết chợ không ai biết, có được chết bình thường hay bị tai nạn mà chết, ngã xe mà chết, rắn cắn mà chết, ngộ độc mà chết, rơi xuống nước mà chết… Giờ chết có được gặp các linh mục để chịu các nhiệm tích hay không ? Có chuẩn bị linh hồn sẵn sàng hay đang có tội nặng mà phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp… Đấy giờ lâm tử của chúng con đầy nguy hiểm và đe dọa là thế. Vì vậy, chúng con kêu xin Mẹ đừng bỏ chúng con trong giờ đó. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, xin cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử. Amen