Ngày 21/11: Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ, Lễ nhớ

I. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Lễ Đức Mẹ Dâng mình trong đền thờ bắt nguồn ở phương Đông; lễ này có liên quan tới ngày kỷ niệm lễ Cung hiến thánh Đường Đức Mẹ (Sainte-Marie-la-Neuve) (21 tháng 11 năm 543), thánh đường này được hoàng đế Justinien (527-565) xây dựng tại Giêrusalem gần Đền thờ và bị quân Ba Tư phá huỷ năm 614.

Giáo Hội phương Đông liên kết sự kiện này với lễ kính nhớ sự kiện mà Giáo Hội Byzantine gọi là việc “Đức Mẹ Thiên Chúa vào đền thờ”. Lễ này là lễ bậc 2 đối với người Hi Lạp, bậc 1 đối với người Slavơ, được mừng trong 6 ngày (20-25 tháng 11) và hình như lấy ý tưởng từ Ngụy thư thánh Giacôbê, được viết giữa thế kỷ II. Tác phẩm này cũng có tên là Lịch sử của thánh Giacôbê về việc Đức Maria sinh ra, và kể rằng Đức Mẹ, hồi thơ ấu, đã được dâng vào Đền thờ và sống ở Đền thờ cho tới năm 12 tuổi. “Vị tư tế đón nhận ngài, chúc phúc và nói: Đức Chúa đã tôn vinh danh ngài qua mọi thế hệ. . .Đức Chúa đã ban tràn ơn phúc cho ngài, và ngài nhảy mừng, và toàn thể nhà Ítraen yêu mến ngài. . .” (Ngụy thư Giacôbê).

Ở phương Tây, người ta đã cử hành lễ này từ thế kỷ IX trong các tu viện đông phương ở miền nam nước Ý, rồi từ đó truyền sang nước Anh vào thế kỷ XI. Nhưng mãi đến năm 1373 giáo triều Rôma ở Avignon mới bắt đầu cử hành lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ, nhờ Philipe de Mézière, hiệp sĩ người Pháp từng cư trú ở phương Đông và muốn mình là người truyền bá việc tôn sùng này ở phương Tây, với mục đích thiết lập sự hiệp nhất với người Hi Lạp. Đức Giáo Hoàng Grégoire XI (1370-1378) cho phép cử hành thánh lễ này với giờ kinh phụng vụ riêng; và năm 1472, Đức Giáo Hoàng Sixte IV mở rộng lễ này cho Giáo Hội công giáo toàn cầu với một phụng vụ giờ kinh riêng trong sách nguyện.

Các bài giảng về lễ Đức Mẹ Dâng Mình Trong Đền Thờ rất nhiều. Các bài giảng đích thực đầu tiên có lẽ là của thánh Germain, giáo phụ Constantinople (715-730) và của André de Crète († 740). Vào thế kỷ XI có: Tarasios, giáo chủ Constantinople († 806), Basile de Philippes và Georges de Nicomédie.

Các tranh ảnh thánh cũng rất nhiều, lấy hứng từ các tác phẩm nguỵ thư, mô tả Đức Mẹ đứng trên bậc Đền thờ: tranh ghép của Daphni, tranh trang trí sách Menologe de Basile (Vatican, thế kỷ XI), tranh dầu của Giotto (Pađua), Carpaccio (Milan), Titien (Venise), tượng điêu khắc của V. Stoss (Cracovie). Một bức tranh khắc trên gạch lát (thế kỷ V) được giữ trong nhà thờ hầm Saint-Maximin de Provence, mô tả “Đức Trinh Nữ Maria phục vụ trong Đền thờ Giêrusalem”.

II. Thông điệp và tính thời sự

Phụng vụ lễ Đức Mẹ Dâng Mình không dừng lại ở những bài tường thuật nguỵ thư, nhưng làm sáng tỏ ý nghĩa thần học và thiêng liêng của nó.

Lời Nguyện của ngày nói đến sự chuyển cầu của Đức Mẹ, để ngài xin cho chúng ta được “sống hạnh phúc ở đời này” trước mặt Thiên Chúa. Bài đọc I (Cn 8, 22-31) cũng gợi lên cùng ý tưởng đó: . . . Ta đã hiện diện ở bên Người. Ngày ngày ta là niềm vui của Người, trước mặt Người, ta không ngớt vui chơi, vui chơi trên mặt đất, ta đùa vui với con cái loài người.

“Giá trị gương mẫu cao vời” của việc Đức Mẹ Dâng Mình (x. Marialis Cultus 8) cũng nhấn mạnh ơn gọi và phẩm giá của Đức Maria. Nhờ việc hoàn toàn sống trước sự hiện diện của Chúa và giữ mình trinh khiết, ngài cũng trở thành “Mẹ Thiên Chúa, Đền Thờ Đấng Tối Cao, Nhà Ở của Chúa Thánh Thần” (điệp ca của Magnificat). Chính nơi ngài, Lời của Thiên Chúa được thể hiện (điệp ca của Benedictus).

Bài giảng của thánh Augustin trong Giờ Kinh Sách mô tả sự vĩ đại của Đức Maria trong tư cách “môn đệ Chúa Kitô”“Đối với Đức Maria, là môn đệ Chúa Kitô quan trọng hơn là Mẹ Chúa Kitô … Ngài đã nghe lời Thiên Chúa và đã ôm ấp Lời ấy …Tâm hồn ngài đã giữ gìn chân lý hơn là lòng dạ ngài giữ gìn xác thể. Chân lý, đó là Đức Kitô trong tâm hồn Đức Maria; xác thể, đó là Đức Kitô trong lòng dạ Đức Maria. Điều ở trong tâm hồn thì lớn hơn điều ở trong lòng dạ.”

Còn chúng ta, làm thế nào trở thành “mẹ Chúa Kitô ?” Thánh Augustin trả lời bằng Tin Mừng: Ai nghe và làm theo ý của Cha thầy, người ấy là anh em, chị em, và là mẹ thầy ».

Sau cùng, việc Đức Mẹ Dâng Mình là một biểu tượng của việc hoàn toàn thánh hiến cho Thiên Chúa, nên sự kiện này cũng được hiểu như một mẫu mực cho việc chuẩn bị đời sống tu trìb hay thánh hiến. Noi gương cha Olier (1608-1657), vị sáng lập hội các cha Xuân Bích, nhiều nhà giáo dục đã đề nghị lấy mầu nhiệm Đức Mẹ Dâng Mình làm mẫu mực hoàn hảo cho sự thánh hiến.

Enzo Lodi