Ngày 7/12: Thánh Am-brô-xi-ô – Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh, Lễ nhớ
I. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ
Thay vì mừng lễ thánh Ambroise vào ngày mất của ngài (4 tháng 4 năm 397), thường rơi vào các ngày lễ Phục sinh, Giáo Hội mừng vào ngày 7 tháng 12, là ngày kỷ niệm ngài thụ phong giám mục (394). Tại Rôma, từ thế kỷ XI, người ta đã mừng lễ ngài vào ngày này, cũng như trong các Giáo Hội Byzantin và một số nhà thờ chính toà hay tu viện thời Trung cổ. Cùng với thánh Augustin, Hiêrônimô và Grégoire, thánh Ambroise là một trong bốn thánh giáo phụ và tiến sĩ lớn của Giáo Hội la-tinh, và là một trong những vị thánh được yêu mến nhất.
Thánh Ambroise sinh tại Trèves (Augusta Trevirorum) khoảng năm 339, trong một gia đình Kitô giáo thuộc giới quí tộc Rôma, vào thời kỳ cha ngài làm pháp quan của tỉnh Gaules. Khi cha mất, mẹ của ngài về sống tại Rôma cùng với ba người con: hai trai và một gái, Marcellina, cô em gái này sẽ nhận khăn choàng trinh nữ từ tay Đức giáo hoàng Libère. Sau khi hoàn tất các môn văn chương và luật, Ambroise đã hành nghề một cách xuất sắc, đưa ngài tiến mau đến tận Milan, tại đây ngài được bổ nhiệm làm tổng trấn tỉnh Ligurie và Émilia của Rôma.
Năm 374, khi giám mục Auxence thuộc phe lạc giáo Arius qua đời, quan tổng trấn Ambroise tới nhà thờ lớn Milan để giữ trật tự vào dịp bầu tân giám mục. Nhưng, tuy mới chỉ là một dự tòng, chính ngài lại là người được chọn làm giám mục trước sự phấn khởi của toàn dân. Họ la to: “Ambroise giám mục!” Ngài miễn cưỡng chấp nhận, và tám ngày sau, ngài được rửa tội, được truyền chức và tấn phong. Lúc đó ngài khoảng ba mươi tư tuổi. Sau khi trở thành người đứng đầu Giáo Hội ở Milan, thánh Ambroise học tập thừa tác vụ đến độ ngài trở thành một trong những vị mục tử hoàn hảo nhất trong lịch sử Hội Thánh. Việc đầu tiên ngài làm là phân phát tài sản của mình cho người nghèo và chọn một nếp sống khổ hạnh. Rồi, dưới sự hướng dẫn của một cha Simplicien, một linh mục giàu kinh nghiệm, ngài dấn thân miệt mài vào việc học Kinh Thánh và các tác giả Ki-tô giáo. Ngài học nhằm phục vụ trước hết cho việc rao giảng và thi hành tác vụ huấn giáo. Bị lôi cuốn bởi Tin Mừng Luca, ngài đã viết một bình luận về Tin Mừng này, còn truyền lại tới chúng ta ngày nay. Chúng ta cũng còn giữ được một sưu tập các khảo luận của ngài về các nhân vật và chủ đề Kinh Thánh: Abel, Cain, Nôê, Abraham, Isaac, thiên đàng, tạo dựng. . .
Thánh Ambroise không ngừng quan tâm tới việc dạy giáo lý cho dân chúng, nhất là trong việc khai tâm đức tin và chuẩn bị phép rửa. Trong khảo luận Các Mầu Nhiệm và các Bí Tích, thánh giám mục Milan cắt nghĩa cho các tín hữu về các bí tích và phụng vụ. Nhưng ngài không chỉ giới hạn vào việc giảng thuyết. Nhằm giúp các tín hữu tham dự tích cực vào phụng vụ, ngài đã sáng tạo ra nhạc bình dân – thể loại đầu tiên ở phương Tây – và ngài đưa các bài hát xen vào các thánh vịnh. Cũng vậy, ngài soạn ra các thánh thi và các ca vãn, và một số sáng tác của ngài ngày nay vẫn còn được dùng để cầu nguyện hay hát trong phụng vụ thuộc nghi lễ Ambroise ở giáo phận Milan.
Trong một xã hội mà Kitô giáo chưa thấm nhuần hoàn toàn, thánh Ambroise quan tâm canh tân các phong tục với mục đích Kitô hoá chúng; ngài cống hiến cho phương Tây khảo luận đầu tiên về đạo đức học Kitô giáo (De Officiis), lấy hứng chủ yếu từ Cicéron. Nhiều khảo luận bàn về đề tài trinh khiết, trong đó có một tác phẩm ngài viết cho em gái ngài là Marcellina, lúc đó đã qui tụ được một số chị em thành một cộng đoàn trinh nữ. Một tiểu luận khác ngài viết cho các bà góa.
Viết đã giỏi, ngài còn là nhà hùng biện lỗi lạc; chính nhờ ngài mà chàng thanh niên Augustin ở Tagaste đã hoàn tất hành trình hoán cải của mình. Cuối đời, bị suy yếu và biết giờ chết sắp tới, ngài đọc cho người ta viết bình luận về thánh vịnh 43 (44). Ở câu 24, ngài nói: “Thật khó khăn khi phải kéo lê lâu dài một thân xác mà bóng tử thần đã che phủ. Lạy Chúa, xin đứng lên. Tại sao Người vẫn ngủ? Người sẽ xua đuổi con mãi sao?” Sự vĩ đại và thánh thiện của thánh Ambroise được diễn tả trong tiếng kêu la cuối cùng này, mà Chúa đã nghe vào một ngày thứ sáu tuần thánh, 4 tháng 4 năm 397.
II. Thông điệp và tính thời sự
Ca Nhập lễ nhắc lại những lời của sách 1 Samuel 2, 35: Ta sẽ làm xuất hiện cho ta một tư tế trung thành, nó sẽ hành động theo lòng Ta mong muốn… Cũng vậy, Lời Nguyện của ngày nói: “Lạy Chúa, xin làm xuất hiện trong Hội Thánh Chúa những con người như lòng Chúa mong muốn.” Là độc giả trung thành của Tin Mừng Luca, thánh Ambroise đã biết bắt chước trong thừa tác vụ giám mục của ngài mẫu gương của người Mục Tử Nhân Lành và trở nên một “tư tế trung thành” theo lòng Chúa Giêsu. Chúa Giêsu luôn ở tâm điểm của mọi tư tưởng và hoạt động mục vụ của ngài: “Chúng ta có mọi sự trong Đức Kitô, mọi sự đều thuộc quyền Đức Kitô, và Đức Kitô là tất cả cho chúng ta. Nếu bạn muốn chữa lành vết thương, Người chính là thầy thuốc. Nếu bạn bị nóng sốt, người chính là suối mát. Nếu bạn sợ chết, Người chính là sự sống. Nếu bạn muốn lên trời, Người chính là đường đi. Nếu bạn tìm của nuôi thân, người chính là lương thực” (PL 44, 671).
Thánh Ambroise cũng nhìn thấy Đức Kitô là “Lang quân” của sách Diễm Ca, đi tìm “Hôn thê”, hình ảnh của linh hồn và của Hội Thánh. Chính trong sự trinh khiết thánh hiến mà cuộc “hôn nhân mầu nhiệm” giữa linh hồn và Ngôi lời được thể hiện trọn vẹn.
Thánh Ambroise đã cai quản Giáo Hội ngài “với sức mạnh và sự khôn ngoan” (Lời Nguyện). Trong một thời kỳ khó khăn mà Giáo Hội phải tìm cách khẳng định sự độc lập của mình đối với quyền lực chính trị, đồng thời trong vai trò của ngài là người nắm giữ công lý và sự thật, vị giám mục Milan đã chu toàn đầy đủ sứ mạng của mình.
– Năm 386, khi hoàng hậu Justine giao quyền cai quản thánh đường Milan cho một giám mục thuộc phái Arius, thánh Ambroise đã cho giáo dân vào chiếm thánh đường. Hoàng hậu phải nhượng bộ.
– Khi Maxime cướp chính quyền, thánh Ambroise đã bảo vệ các quyền của nhà vua trẻ Valentinien II.
– Khi hoàng đế Théodose tàn sát dân chúng Thessalonique để báo thù, thánh Ambroise đã nhắc nhở tới luật pháp và buộc hoàng đế sám hối công khai một cách nghiêm khắc.
Ca Hiệp lễ trích Tin Mừng Gioan 10, 11: Người mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên, và Lời Nguyện sau hiệp lễ khích lệ chúng ta “học đòi gương sáng của thánh Ambroise.”
Ngài rao giảng bằng gương sáng còn nhiều hơn bằng lời nói. Ngài phân phát tất cả tài sản mình cho người nghèo, và không ngần ngại đổi những bình thánh của nhà thờ để chuộc các tù nhân. Ngài viết trong Khảo luận về ông Nabóth: “Không phải bạn lấy của cải mình phân phát cho người nghèo, mà chỉ là bạn trả lại cho họ phần của họ mà thôi. Bởi vì bạn đã một mình chiếm đoạt những cái được ban cho mọi người để sử dụng. Đất đai thuộc về mọi người chứ không thuộc về người giàu… Như thế bạn trả nợ của bạn, chứ không phải bạn ban phát một cách hào phóng đâu”(Nabóth, 55).
“Ánh sáng đức tin soi chiếu thánh Ambroise” (Lời Nguyện trên lễ vật) đã biến ngài trở nên một mục tử và một vị tiến sĩ đáng cảm phục. Là người dạy giáo lý cho Paulin de Nole và Augustin, ngài không ngừng quan tâm cống hiến cho các tín hữu một giáo huấn tinh tuyền, trung thực với giáo lý của Hội Thánh “không bao giờ lay chuyển, vì được xây trên tảng đá của thánh Tông đồ” (Thư gửi Constance). Câu nói sau đây của ngài đã trở thành điển ngữ: “Ở đâu có Phêrô, ở đó có Hội Thánh” (Về Thánh vịnh 40).
Nguồn mạch tuôn trào thông điệp Kitô giáo chính là Lời Thiên Chúa: “Hãy nghe lời của Đức Kitô, để tiếng của Người vang xa. Hãy hứng lấy nước của Đức Kitô… Hãy thu gom nước của Người từ khắp mọi chân trời, và hãy làm lan rộng khắp nơi những đám mây, biểu tượng của các ngôn sứ. Ai hứng được nước trên núi cũng làm cho nước tràn ra như một đám mây.” Là bậc thầy về khoa ăn nói, thậm chí rất quyến rũ, ngài đã cho giám mục Constance những lời khuyên quí giá: “Các bài giảng của đức cha phải phong phú, tinh tuyền và trong sáng… Đức cha hãy đổ vào tai các thính giả của mình nhiều sự dịu ngọt, thu hút giáo dân của mình bằng vẻ đẹp của lời nói, và giáo dân sẽ sẵn sàng theo đức cha bất cứ đến đâu… Các lời của đức cha phải chứa đầy sự khôn ngoan… Các bài giảng của đức cha phải dễ hiểu, và ý nghĩa phải rõ ràng” (Thư gửi Constance, trong Giờ Kinh Sách).
Thánh Augustin ca ngợi tài hùng biện của thánh Ambroise: “Tôi đứng đó: tâm trí bị cuốn hút theo lời của ngài. Thú thật tôi chẳng quan tâm gì, thậm chí coi thường nội dung, nhưng sức quyến rũ của lời ngài nói làm tôi mê hoặc” (Tuyên xưng 5, 13).
Các ảnh thánh đôi khi vẽ thánh Ambroise tay cầm roi, nhưng thực sự ngài đầy nhân tính: “Hãy cho tôi được cảm thông mỗi khi tôi chứng kiến sự sa ngã của một tội nhân, ngài viết thế. Chúng ta thà tỏ ra tốt lành và gánh lấy sự buồn phiền cho mình, còn hơn tỏ ra vô nhân đạo.”
Enzo Lodi