Ngày 16/6: Thánh Đaminh Nguyên, Nhi, Mạo và Thánh Vinhsơn Tưởng, An-rê Tường
Thánh Đa-minh Nguyên
Ông Đa-minh Nguyên sinh ở làng Ngọc Cục, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định cùng quê với thánh Vi-xen-tê Tường. Ông cũng ra làm việc dân như ông Vi-xen-tê Tường, ông Đa-minh Nhi, ông An-rê Tường. Ông có tiếng đạo đức sốt sắng.
Ngày 14-9-1861, quan về làng Ngọc Cục bắt các người có đạo quá khoá. Vì cương quyết không chịu quá khoá, ông phải bắt giải lên phủ Xuân Trường cùng với các bạn.
Sau 10 tháng tù đày tra tấn đủ mọi cực hình, ông Nguyên và các bạn nhẫn nại chịu đựng, không phàn nàn kêu trách, lại khuyên bảo nâng đỡ nhau chịu khó vì danh Chúa Kitô, cùng nhau tuyên xưng Đức Tin, thà chết không chịu bước qua Thánh giá.
Phải già hiệu ngoài nắng nhiều lần, bị thiêu đốt, cổ họng rát bỏng, ông chỉ cầu nguyện, nhớ lại xưa Chúa Kitô cũng đã chịu khát khi phải treo trên thập giá.
Không lung lạc nổi ý chí sắt đá của ông Đa-minh Nguyên và các kỳ mục, quan kết án các ông phải trảm quyết và chiều ngày 16-6-1862, ông và các bạn phải xử ở cánh đồng làng Cốc. Cánh đồng lúa bát ngát tượng trưng cho cánh đồng truyền giáo bao la, máu các đấng tử đạo đổ ra báo trước một mùa gặt bội thu trên đất Việt Nam.
Thi hài ông Đa-minh Nguyên được đưa về an táng trong nhà thờ Ngọc Cục.
Ngày 29-4-1951, Đức Thánh Cha Pi-ô XII phong cho ông Đa-minh Nguyên lên bậc chân phúc và ngày 19-6-1988 Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn ông lên bậc hiển thánh.
Thánh Đa-minh Mạo
Họ Phú Yên, xứ Ngọc Cục là quê hương của thánh Đa-minh Mạo là một trong sáu vị được phong chân phúc ngày 29-4-1951. Ngọc Cục là xứ toàn tòng đạo, xưa là phủ lị Xuân Trường, trong thời cấm cách đã sản sinh ra nhiều vị anh hùng tử đạo.
Ông Đa-minh Mạo là con ông bà Giới, một gia đình khá giả. Ngay từ hồi còn niên thiếu, cậu Mạo đã được cha mẹ lo lắng dạy dỗ để sau nên người giáo hữu tốt, cậu được học chữ Hán. Cậu chăm chỉ học hành, tính nết ôn hoà, được mọi người yêu mến.
Đến tuổi trưởng thành, ông kết bạn, xây dựng một gia đình êm ấm hoà thuận. Con cái được ông săn sóc cẩn thận, cậu Triết con ông dâng mình vào nhà Đức Chúa Trời, ông phấn khởi vui mừng khuyên con vững vàng theo Chúa đến cùng, sau cậu được chịu chức linh mục quen gọi là Cha già Đa-minh Triết, qua đời năm 1950, một năm trước khi cha người được phong chân phúc.
Ông ra gánh vác việc dân, nhờ tài đức và học vấn suốt thời gian làm phó lý, ông làm được nhiều việc hữu ích cho làng nước, được mọi người cảm phục.
Một đức tin vững vàng trước một số phận mong manh
Năm 1861, cơn giông tố bách hại bao phủ Giáo Hội Việt Nam, đời sống giáo dân không có chút gì bảo đảm, ai cũng lo cho số phận mong manh của mình, cái chết đang đợi chờ, đe doạ những người trung thành. Nhưng Chúa đã cho phát sinh những Đức Tin vững vàng vượt thắng lên trên số phận mong manh đó. Ngày 14-9-1861, ngày Lễ Tôn Vinh Thánh giá Chúa Kitô, quan phủ Xuân Trường về vây làng Ngọc Cục, bắt mọi người có đạo phải bước qua thập giá, ai không tuân lệnh sẽ phải bắt giam hay phát lưu sang làng lương dân.
Một số người nhát sợ xúc phạm đến Thánh giá, nhưng một số đông trong đó có ông Đa-minh Mạo tôn vinh Thánh giá Chúa bằng cách hiên ngang xưng Đức Tin, thà chết chẳng thà quá khoá.
Ông Phó Lý Mạo bị bắt giam, trước còn được tự do gặp họ hàng thân thích, nhưng khi quan huyện Vụ Bản về tra khảo, ông một mực cương quyết không khoá quá, nên đêm ngày phải mang gông xiềng khổ sở.
Trải qua bao nhiêu trận đòn dữ tợn, vị tuyên xưng đức Tin, trước sao sau vậy, không hề sờn chí, dù phải chịu cả cực hình cay nghiệt này là cấm cốc, trói lại đem phơi ngoài nắng giữa bãi tha ma, cũng không làm ông sờn lòng nao núng, ông còn ăn chay thêm để xin Chúa ban sức mạnh.
Trận chiến đấu cuối cùng để phân thắng bại
Ngày 15-6-1862 quan án tỉnh Nam Định về làng Cốc, lập toà án ở đình làng xét xử ông Đa-minh Mạo. Đây là trận chiến đấu cuối cùng để phân thắng bại. Hai bên đều cố đoạt phần thắng về mình. Mọi người ngạc nhiên thấy ông Phó Lý Mạo bình tĩnh hiên ngang đến trước toà án như người chiến thắng. Quan truyền ông bước qua thánh giá, ông kiên quyết trả lời: “Thưa quan lớn, không bao giờ”. Ông bị trói đem ra phơi giữa trời nắng như thiêu như đốt, quan mong sẽ làm lung lạc gan dạ người chiến sĩ. Quan Án đã nhầm. Hôm sau quan lại dụ dỗ, dọa nạt, nhưng vị tuyên xưng Đức Tin đanh thép trả lời như những nhát dao chặt đứt mối hy vọng không tưởng của quan Án. Ông nói rằng: “Bẩm quan lớn, sao quan cứ quấy rầy chúng tôi mãi? Chúng tôi có phải là trẻ con ngây thơ sợ khổ hình hơn sợ xúc phạm đến Thiên Chúa? Nếu chúng tôi muốn đạp Thánh giá, thì ngay lúc mới bị bắt, chúng tôi đã làm để khỏi chịu bao khổ hình từ đó đến nay. Quan muốn kết án thế nào cũng được, tuỳ ý quan lớn. Chúng tôi nhất định sống chết không bao giờ đạp Thánh giá Chúa Kitô đã dùng để cứu độ thế gian”.
Thất bại hoàn toàn, quan kết án trảm quyết.
Ba quan tiền, ba nhát gươm kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi
Cánh đồng lúa bao la, hưu quạnh ở làng Cốc, hôm nay náo động hẳn lên, mọi người tuôn đến rất đông dự cuộc xử người có đạo. Ông Đa-minh Mạo vừa đi vừa cầu nguyện, vui vẻ dũng cảm tiến đến pháp trường làng Cốc, ông hân hoan đón giờ hy sinh chiến thắng. Mọi người càng ngạc nhiên hơn nữa, vì họ thấy trước lúc xử, sau khi đã quỳ cầu nguyện, ông Mạo đưa cho Lý hình ba quan tiền, xin chém đầu mình ba nhát gươm kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Lý hình ưng nhận. Hồi hiệu lệnh vang lên ba nhát gươm đưa qua cổ, đầu rơi xuống đất, linh hồn ông Mạo bay về nơi sáng láng hưởng vinh phúc với Chúa Ba Ngôi. Hôm ấy là ngày 16-6-1862.
Đức Thánh Cha Pi-ô XII phong chân phúc cho ông Đa-minh Mạo ngày 29-4-1951, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tổn ông lên bậc hiển thánh ngày 19 6-1988.
Thánh Vinh sơn Tương
Chân phúc Vi-xen-tê Tương, một trong sáu vị chân phúc là hiển danh xứ Ngọc Cục là quê hương các ngài, cũng là nơi phải tàn phá bách hại nhất trong thời cấm cách.
Ông là một kỳ mục khá giả có tiếng trong làng, nhiệt thành, đạo đức.
Ngày 14-9-1861, quan phủ Xuân Trường đem quân về vây làng bắt người có đạo khoá quá. Những người bất tuân sẽ phải tù và phát lưu.
Trong số các người không chịu bỏ đạo có ông Vi-xen-tê Tương, Đa-minh Nhi, An-rê Tường, Đa-minh Nguyên. Các ông phải giải về phủ, giam trong trại quản thúc, chịu biết bao cực hình, nhưng các ông thà chết quyết giữ vững Đức Tin. Sau thời gian cấm là thời phát lưu. Gần một năm trời, hết nơi này đến nơi kia, phải chửi bới sỉ nhục, hành hạ do lương dân, do lính tráng, những cơn cám dỗ làm tâm hồn như bị xâu xé. Nhưng với ơn Chúa phù giúp, các ông nâng đỡ an ủi nhau chịu khó vì danh Chúa. Có lần các ông phải cho tiền những người ngạo ngược, xin họ đừng nói xúc phạm đến Chúa.
Ông Vi-xen-tê Tương và các bạn phải tra tấn ở trước cửa đình làng Cốc, bị đòn vọt, kìm kẹp, các ông vẫn không ngừng tuyên xưng Đức Tin trước mặt quan tòa, quan tức giận ra một hình phạt dã man: Các ông phải ngồi xổm, hai tay đặt xuống khuỷu chân, rồi trói chặt hai cổ tay ghì lại trước cổ chân không cử động nhúc nhích được, cứ ngồi thế giữa trời nắng như thiêu cho đến tối. Nhưng đoàn chiến sĩ của Chúa Kitô không nao núng, thân xác bị sức nóng mặt trời thiêu đốt, nhưng tâm hồn lại được thêm lửa mến Chúa.
Những kỳ mục làng Cốc thấy các ông là những người có địa vị trong làng khổ sở, tỏ lòng thương hại, khuyên ông Vi-xen-tê Tương và các bạn ông bước qua thập giá, rồi về sống yên vui với gia đình xóm làng. Các ông cám ơn họ, nhưng cương quyết không chối Chúa.
Ông Tương và các bạn phải tra tấn nhiều lần, các quan tưởng để các ông chịu khổ nhiều, các ông sẽ nản lòng, nhưng trái lại, Đức Tin của các ông càng được tôi luyện, càng trở nên vững chắc mà không một mưu mô xảo quyệt nào có thể lay chuyển nổi.
Các quan đành phải khép án ông Tương và các bạn phải trảm quyết.
Chiều ngày 16-6-1862, ngày thi hành án, các ông vui vẻ tiến ra pháp trường làng Cốc. Ở đây bốn cọc đã đóng sẵn, các ông quỳ cầu nguyện ngay trước cọc của mình, các ông cám ơn Chúa đã ban phúc rất trọng đợi chờ từ lâu, đưa mắt nhìn chung quanh từ giã mọi người. Lý hình trói các ông vào cọc. Sau hồi chiêng lệnh, các ông phải chém cùng một lúc, đầu rơi, linh hồn các ông bay về hưởng phúc vô cùng với Đấng đã hứa nước thiên đàng cho những người chịu bách hại vì đạo.
Thi hài ông Vi-xen-tê Tương được đưa về an táng ở nhà thờ Ngọc Cục.
Ngày 29-4-1951, Đức Thánh Cha Pi-ô XII đã phong chân phúc cho ông Vi-xen-tê Tương lên bậc chân phúc và Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn ông lên bậc hiển thánh ngày 19-6-1988.
Thánh An-rê Tường
Ông An-rê Tường sinh ở làng Ngọc Cục, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định trong một gia đình đạo đức sốt sắng. Ông là một giáo hữu nhiệt thành, là một kỳ mục có tên tuổi trong làng, ông dùng thế lực của mình để lo việc công ích xã hội và bênh đỡ đạo trong thời cấm cách.
Nhưng cơn bách hại ngày càng gay gắt, làng có đạo là mục tiêu các quan theo dõi. Không ngày nào không có đoàn người phải giải lên phủ bắt quá khoá.
Ngày 14-9-1861, quan quân về vây làng Ngọc Cục, vì bất khẳng khoá quá, ông An-rê Tường và các bạn phải giải lên phủ Xuân Trường.
Sau 10 tháng tù đày, chịu trăm nghìn cực hình như các ông Vi-xen-tê Tường, Đa-minh Nguyên, mà vì cũng như các bạn, ông cương quyết giữ vững Đức Tin nên các quan kết án trảm quyết.
Ngày 16-6-1861, ông bị xử ở cánh đồng làng Cốc. Thi hài ông được đem về an táng ở nhà thờ Ngọc Cục.
Ngày 29-4-1951, Đức Thánh Cha Pi-ô XII đã phong chân phúc cho ông An-rê Tường và ngày 19-6 1988 Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn ông lên bậc hiển thánh.
Đức Hồng Y Giu-se Ma-ri-a Trịnh Văn Căn
Đức Hồng Y Giu-se Ma-ri-a Trịnh Văn Căn