Các bài suy niệm lễ Chúa Lên Trời
Các bài suy niệm: * LỄ THĂNG THIÊN & CN7PS_C
* Lễ TT: Cv. 1, 1-11; Dt. 9, 24-28; 10, 19-23; Lc. 24, 46-53
* CN7PS: Cv 7,55-60; Kh 22,12-14,16-17.20; Ga 17, 20-26
NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
MỤC LỤC
* LỄ THĂNG THIÊN.. 3
1. Bàn tay Chúa. 3
2. Chúa lên trời 5
3. Sức mạnh từ trời cao. 7
4. Niềm hy vọng Nước Trời – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 10
5. Cuộc sống chứng nhân – Thiên Phúc. 12
6. Chúa Giêsu lên trời – R. Veritas. 15
7. Ra khơi – R. Veritas. 21
8. Không giải thích được – Achille Degeest 24
9. Hướng lòng về thượng giới – Lm Ignatio Trần Ngà. 26
10. Chúa tin tưởng chúng ta. 28
11. Hãy mang Chúa đến cho nhân trần. 31
12. Thời kỳ của Giáo Hội – Flor McCarthy. 34
13. Suy niệm của R. Gutzwiller. 40
14. Chúa lên trời 43
15. Chứng nhân. 45
16. Chúa lên trời 47
17. Chúa lên trời – Lm. Phạm Thanh Liêm.. 51
18. Lên trời 54
19. Chứng nhân. 57
20. Nước trời 60
21. Chứng nhân Nước Trời – Lm. Bùi Quang Tuấn. 63
22. Chú giải của Noel Quesson. 67
23. Chú giải của Fiches Dominicales. 73
* CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH.. 78
1. Hiệp nhất 78
2. Trong cung lòng Thiên Chúa. 81
3. Dấu ấn của Thiên Chúa – Achille Degeest 84
4. Chờ mong Thần Khí 86
5. Hiệp nhất 92
6. Nên một 96
7. Người yếu. 98
8. Cái giá phải trả cho cuộc sống. 101
9. Xin cho chúng nên một – Lm. Vũ Thái Hoà. 104
10. Chú giải của Noel Quesson. 107
11. Chú giải của Fiches Dominicales. 114
* LỄ THĂNG THIÊN
1. Bàn tay Chúa.
Người ta kể rằng: sau thế chiến thứ hai, một toán lính đồng minh đi giúp các người dân xây dựng lại cuộc sống trên đống gạch hoang tàn đổ nát. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa, thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay của pho tượng đã bị bọm đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Viên sĩ quan viết vào pho tượng câu này: Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.
Một người khốn khổ nằm chờ chết bên vệ đường. Chúa xót thương người ấy, nhưng Chúa lại không thể gởi chén cơm manh áo cho người ấy. Nhưng may quá, tôi không phải là Chúa, tôi có thể đem cho người ấy một ly nước, một chén cơm. Đó là chỗ duy nhất tôi hơn Chúa.
Trong Phúc Âm chính Chúa cũng đã phán: Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, Ta bị đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm. Chúa có thể làm nên cơm gạo cho người nghèo nhưng Chúa lại không thể đưa cơm gạo ấy cho họ được. Ngài phải nhờ đến đôi bàn tay của chúng ta.
Đó là những suy tư tôi đọc thấy trong một cuốn sách. Nghe qua thì rất táo bạo, nhưng đã nói lên một sự thật rất sâu xa, đó là Chúa dùng bàn tay chúng ta để ban phát những quà tặng, để xoa dịu những nỗi khổ đau cũng như để nâng đỡ và khích lệ cho những người chung quanh.
Trong chương trình cứu độ của Chúa, phần đóng góp của con người cũng thật là quan trọng như lời thánh Augustinô đã nói: Chúa sẽ không thế nào cứu chuộc được chúng ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn. Chúa đã chịu chết một lần trên cây thập giá và đã làm nên kho tàng ơn cứu độ. Thế nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, để phân phát nguồn ơn sủng ấy cho anh em đồng loại. Hay nói một cách khác cuộc sống của người Kitô hữu, phải là một sự nối tiếp công trình cứu độ của Đức Kitô. Bản thân chúng ta phải kéo dài sự hiện diện của Chúa cho đến tận cùng thời gian.
Cũng chính vì thế, trước khi về trời, Chúa đã truyền cho các môn đệ: Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê rusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Và như vậy, Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài đễ đem Tin Mừng cứu độ đến cho mọi người. Bởi đó, chúng ta phải sống thế nào để người khác khi nhìn vào chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa.
2. Chúa lên trời
Chiều thứ năm tuần thánh, sau khi rời phòng tiệc ly, Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ theo con đường Bêtania để lên núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã phải trải qua một cơn hấp hối đầy cay đắng, đến nỗi mồ hôi máu chảy xuống…
Rồi ngày hôm nay, Ngài đã đi lại con đường ấy, cũng để tiến đến núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã gặp gỡ, đã vĩnh biệt các môn đệ, trước khi Ngài được đưa lên trời dưới mắt các ông.
Từ đó, chúng ta nhận thấy: Cùng một địa điểm, nhưng có những khác biệt và tương phản. Thực vậy, lần trước Ngài đến để thực hiện thánh ý Chúa Cha, đó là chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Lần sau Ngài đến trong vinh quang như một Đấng đã chiến thắng.
Tôi nghĩ rằng đó chính là hình ảnh, là con đường, mà mỗi cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội, sẽ phải dấn thân vào trong thời điểm hiện nay.
Đúng thế, có những lúc Giáo Hội phải lên núi Cây Dầu để làm quen với thập giá, nếu muốn được chiêm ngưỡng vinh quang phục sinh. Đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy rõ được điều ấy.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ điều gì trước khi vĩnh biệt họ? Tôi xin thưa: Ngài đã nhắc tới cái chết và sự sống lại của Ngài nhằm tha thứ tội lỗi. Rồi Ngài phán: Từ nay họ sẽ là chứng nhân của mầu nhiệm vượt qua, bằng các loan báo Tin mừng hoán cải ở mọi nơi, trong mọi lúc và trên mọi nẻo đường trần gian. Và một điều quan trọng khác nữa, đó là họ sẽ phải sống mầu nhiệm thập giá để làm chứng cho Đức Kitô.
Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy thiên thần đã nhắc khéo các môn đệ:
– Này các bạn xứ Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời làm chi.
Hay nói cách khác:
– Các bạn hãy về đi. Về với sứ mạng vừa mới được trao phó.
Đúng thế, con người chúng ta tiến bước, đôi mắt ngước nhìn trời, nhưng bàn chân thì lại đạp đất. Đó là một hình ảnh trung thực nhất về Giáo Hội nói chung và về mỗi người chúng ta nói riêng. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta lại có khuynh hướng ly khai, tách biệt hai yếu tố căn bản ấy và chúng ta đã tạo nên một nếp sống chông chênh, không vui lòng Chúa, mà cũng chẳng đem lại lợi ích gì cụ thể cho bản thân mình.
Nếu ngày xưa Đức Kitô đã phải vác thập giá để tiến tới Phục sinh, thì hôm nay cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội cũng phải bước đi trên con đường ấy, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đương về vinh quan và thập giá là đương dẫn tới phục sinh.
Vì thế, hãy chập nhận thập giá đời thường là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa lên quê hương Nước trời, chia sẻ niềm hạnh phúc vinh quang với Ngài.
3. Sức mạnh từ trời cao
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu được đưa về trời khiến cả nhân loại hoan hỷ.
Con Thiên Chúa làm người, long đong với phận người, nếm cái nghèo đói, nhọc nhằn, nếm nỗi khổ đau, cay đắng. Cuộc đời Ngài tưởng như là một thất bại ê chề. Nhưng rồi Ngài đã được phục sinh, đã hiện ra, và được khải hoàn đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Ngài từ Cha mà đến và lại trở về với Cha. Sứ mạng Cha giao, tuy khó khăn, nhưng Ngài đã hoàn tất.
Ta cần chiêm ngắm giây phút Ngài được siêu thăng. Ngài giơ tay chúc lành cho các môn đệ như vị thượng tế. Ngài về trời trong tư thế đang chúc lành.
Chúc lành cho trái đất mà Ngài đã sống.
Chúc lành cho mọi người là người như Ngài.
Hôm nay chúng ta vui vì biết mình có người Anh trưởng đã được nâng lên đến tột đỉnh vinh quang thần linh.
Con người đầu tiên với tất cả nhân tính như ta đã được siêu tôn trên trời, dưới đất và nơi âm phủ.
Sự thành công của Đức Giêsu là niềm hy vọng cho ta.
Cùng đi với Ngài trên con đường cheo leo ấy, chúng ta tin mình sẽ đến nơi mà Ngài đã đến.
Đức Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất. Ngài muốn ta trưởng thành và gánh lấy trách nhiệm.
Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ. Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn. Còn bao dân tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng. Ngài muốn ta làm chứng nhân của Ngài đến tận thế.
Thiên thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời, vì còn quá nhiều việc phải làm trước mắt. Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng quê hương này huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn, để nó xứng đáng đón ngày Ngài trở lại.
Chúng ta không được khoanh tay nhìn trời, nhưng lòng chúng ta lại phải thường xuyên hướng lên trời. Xây dựng trái đất mà không hướng lòng về trời, thì sẽ không tìm được câu trả lời tối ưu.
Chúng ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần để giải quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất: ma túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, nghèo đói và nhất là vấn đề xây dựng con người.
Khoa học kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng nhưng cũng thường làm con người thêm nặng nề. Con người như bị dính vào những sản phẩm mình tạo ra, bị nô lệ cho những nhu cầu không có thực. Trái đất này vẫn có sức thu hút ghê gớm khiến ta muốn chọn nó làm quê hương vĩnh hằng, và quên rằng quê thật của ta ở trên trời cao (Pl 3,20).
“Hãy tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1). Đừng dập tắt nỗi khát khao những điều cao cả.
Ước gì Chúa Giêsu, Đấng được đưa lên cao, kéo ta lên khỏi cái tầm thường ô trọc mỗi ngày.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tiền bạc, tiếng tăm, khoái lạc làm người ta nặng nề. Còn bạn, bạn thấy mình nặng nề vì điều gì? Có cách nào thoát được không?
Đời sống là một nỗ lực “bay lên cao” khỏi sức kéo xuống của vật chất và của cái tôi trì trệ. Có khi nào bạn được nhẹ nhàng mà bay lên khỏi sức kéo đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
4. Niềm hy vọng Nước Trời – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.
Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.
Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.
Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.
Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.
Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
2. Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
3. Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?
5. Cuộc sống chứng nhân – Thiên Phúc.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.
Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Chúa Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.
6. Chúa Giêsu lên trời – R. Veritas
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)
Một thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: “Bên trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc về thế giới. Bên trên trời là hư vô”. Vần thơ này được hàng triệu người trên thế giới chứng thực mỗi ngày khi ngồi trong các máy bay khổng lồ, mà mỗi chuyến bay chở được mấy trăm hành khách. Các loại máy bay này thường bay trên độ cao hơn 10,000 mét, nghĩa là trên các tầng mây. Và quả thật, trên độ cao ấy, du khách chỉ thấy bên dưới là mây, trước mắt và chung quanh là chân trời xanh dài vô tận và bên trên chỉ là khí, không có gì khác.
Tuy nhiên, qua khẳng định trên đây, thi sĩ người Đức ám chỉ một sự kiện khoa học, ông muốn diễn tả xác tín vô thần của ông là không tin có Thiên Chúa, không tin có quê trời, không tin có thiên đàng và cuộc sống mai sau. Cuộc đời con người kết thúc với cái chết và bên kia cái chết chỉ là hư vô. Nghĩa là thi sĩ gián tiếp khẳng định rằng, cuộc đời con người vô nghĩa, do đó cũng không cần phải sống tốt với tha nhân hoặc ăn ngay ở lành hay sống đạo đức luân lý làm gì, cứ việc tham ô, gian ác, bóc lột người khác, cũng không cần phải cầu nguyện làm gì, bởi vì nó chỉ là đối thoại với hư vô, và thế giới này chỉ là hư vô bởi vì không có tương lai.
Nhưng xác tín như vậy là thi sĩ đã rơi vào sự lầm lẫn lớn nhất. Bởi vì trong ngày lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng sau cái chết cuộc sống mới thực sự bắt đầu và bên trên tầng mây là tất cả.
So sánh trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh lên trời trong các bản văn Tin Mừng, chúng ta hiểu ra ngay một sự khác biệt trong Phúc Âm thánh Gioan: cuộc đời Chúa Giêsu tập trung vào ngày sau thứ bảy là ngày lễ Vượt Qua, ngày Chúa Giêsu sống lại, lên trời và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Đối với thánh Gioan, Thiên Chúa tự tỏ lộ mình cho nhân loại trong con người và trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và Giáo Hội hay cộng đoàn các môn đệ là hoa trái của sự mạc khải ấy.
Phúc Âm thánh Matthêu trái lại, là Emmanuel: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, nghĩa là theo thánh nhân, Chúa Giêsu luôn luôn sống hiện diện và hoạt động sâu thẳm giữa cộng đoàn Giáo Hội. Ngài tự đồng hóa mình với mọi người. Do đó, mỗi việc làm cho một trong các thành phần của cộng đoàn Giáo Hội là làm cho chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn hiện diện trong cộng đoàn thân mình mầu nhiệm của Ngài, cho dù cộng đoàn đó có bé nhỏ và có sống tại nơi hẻo lánh xa xôi ở tận chân trời góc biển nào trên thế giới này đi chăng nữa thì vẫn có Chúa hiện diện luôn luôn: “Ở đâu có hai, ba người tụ họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ngự giữa họ”. Chủ đích thần học này giải thích tại sao thánh Matthêu đã không kết thúc Phúc Âm với trình thuật Chúa Giêsu rời bỏ cộng đoàn môn đệ về trời như hai thánh sử Marcô và Luca. Phúc Âm thánh Matthêu kết thúc Phúc Âm với lời Chúa Giêsu trang trọng khẳng định với các môn đệ rằng: “Ngài sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Thánh sử Luca thì có một quan niệm thần học khác, đối với thánh nhân thì thời gian sau khi Chúa Giêsu về trời là thời gian của Giáo Hội. Thánh Luca coi việc cộng đoàn Giáo Hội tiếp nối sự loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu như giai đoạn cuối cùng trong lịch sử cứu độ.
Nếu Kinh Thánh Cựu Ước đã tập trung lịch sử cứu độ vào dân Israel và vào lời hứa của Thiên Chúa, thì Kinh Thánh Tân Ước tập trung lịch sử cứu độ vào Chúa Giêsu và vào ngày hôm nay của Chúa Giêsu như thời điểm thành toàn lời Thiên Chúa đã hứa với dân Israel xưa kia. Lời Thiên Chúa thực hiện trong cộng đoàn Giáo Hội giờ đây phải được tiếp tục thành toàn và ơn cứu độ phải được mọi thành phần Giáo Hội tiếp tục loan truyền cho mọi dân tộc khác. Đó là nội dung của sách Tông Đồ Công Vụ, trong đó thánh Luca tường thuật công tác truyền giảng mà Chúa Giêsu là trung tâm điểm và là người khởi xướng và giờ đây cộng đoàn Giáo Hội tiếp tục đẩy mạnh dưới sự thúc đẩy, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Trong một nghĩa nào đó, biến cố Chúa Giêsu lên trời cần thiết cho việc khai mạc sứ mệnh của Giáo Hội. Chúa Giêsu Phục Sinh lên trời nhưng giờ đây là thời gian Ngài hoạt động qua và trong cộng đoàn Giáo Hội. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không hiện diện trong thế giới này, nhưng Ngài sẽ trở lại trần gian. Nhưng trong thời gian giữa hai khoảng cách đó, Ngài sống ngoài lịch sử, nhưng hiện diện trong lịch sử qua cộng đoàn Giáo Hội. Nước Thiên Chúa thực tại cuộc sống siêu việt vĩnh cửu, vẹn toàn mai sau tỏ hiện dần trong Giáo Hội. Trong nỗ lực, Giáo Hội làm chứng cho Chúa Giêsu và rao truyền Tin Mừng của Chúa.
Thánh sử Luca đã thật khéo léo khi nối liền thời gian hoạt động của Giáo Hội với ngày hôm nay của Chúa Giêsu và giải thích nó như là thời gian của ơn thánh cứu độ. Biến cố Chúa Giêsu lên trời như ghi trong sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm phải được hiểu dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ: mầu nhiệm lên trời giải thích tại sao lại có Giáo Hội. Giáo Hội hiện diện giữa lòng xã hội và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người.
Nói cách khác, qua sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm, thánh sử Luca muốn chứng minh cho chúng ta thấy chương trình Thiên Chúa đối với loài người và thế giới đã được Chúa Giêsu thực hiện và thành toàn, và giờ đây được tỏ hiện từng bước và kéo dài trong cuộc sống của Giáo Hội.
Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời, thánh sử Luca là người duy nhất có can đảm dùng động từ ám chỉ sự chia lìa khi biết Chúa Giêsu Kitô tách rời khỏi đoàn môn đệ, và chương 24 mở đầu trình thuật một ngày sống của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn các môn đệ bằng cách ghi nhận sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Nhưng tiếp sau đó Chúa Giêsu lại hiện diện giữa cộng đoàn, Ngài đồng hành, đàm đạo và dùng bữa tối với hai môn đệ trên đường Emmau, và giờ đây trình thuật kết thúc với Chúa Giêsu lại tự tỏ hiện ra.
Tuy nhiên, sự chia tay này tại Bethania không khiến cho các môn đệ buồn sầu hay chán nản. Trái lại họ cùng nhau trở về Giêrusalem lòng tràn đầy vui sướng. Thánh sử Luca không giải thích tại sao đoàn môn đệ giờ đây phải xa Thầy mình mà lại sướng vui như vậy, nhưng chắc chắn các môn đệ đã khám phá ra hay ít nhất đã trực giác được chuyện gì đó, nghĩa là các vị đã hiểu rằng, Chúa Giêsu tuy đã tách rời khỏi họ, nhưng vẫn luôn hiện diện bên họ.
Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời còn có một điểm đặc biệt khác nữa, đó là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.
Đặc điểm thứ ba trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.
Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.
Bởi vì nếu không có phúc lành và ơn thánh Chúa trợ lực sẽ không có sự sống, sẽ không có ơn hoán cải và biến đổi con tim và công tác truyền giáo của Giáo Hội không sinh hoa trái phong phú. Càng hoạt động nhiều, Giáo Hội càng phải sống chiều kích chiêm niệm và đối thoại thân tình với Chúa nhiều hơn.
Đây cũng là lý do giải thích tại sao trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều để giúp họ được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và từ nay họ phải đảm trách thay Ngài. Lời các thiên thần nhắc nhớ có các ông biết sứ mệnh rao truyền Lời Chúa không cho phép các vị đứng nhìn trời, nhìn đất mơ mộng nuối tiếc hay chỉ lo lắng cho các dịch vụ phụng tự quanh quẩn trong bốn bức tường nhà thờ hoặc đáp ứng nhu cầu của linh hồn mà thôi, mà phải xuống núi, nhập thể, đem Chúa vào đời loan truyền ơn cứu độ và hoạt động thăng tiến con gnười toàn diện như Chúa Giêsu đã làm xưa kia.
7. Ra khơi – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Dịp Lễ Thăng Thiên năm 2001 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:
“Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: “Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất”.
Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa “Hãy ra khơi”, mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. “Hãy ra khơi” ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm. Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: “Tại sao các ông còn nhìn trời?”
Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. “Trời”, nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: “Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.”
Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: “Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em.”
Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.
Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này”.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.
8. Không giải thích được – Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đức Giêsu đã thuyết phục các tông đồ tin rằng Người đã sống lại. Chúa mở tâm trí cho các ông hiểu ý nghĩa Kinh Thánh và thấy mình đang đi vào kế hoạch liên tục của Thiên Chúa. Các ông sắp làm chứng cho Đấng được loan báo trong Kinh Thánh, Người đã thật sự sống với các ông cuộc đời dưới thế của Người và sắp tiếp tục công cuộc cứu độ qua Giáo Hội, đem lợi ích cho khắp thế giới. Các ông sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần đến hoàn tất sự hiểu biết của mình, như Đức Giêsu đã hứa. Lúc đó sẽ thấu hiểu ý nghĩa khổ nạn và Phục Sinh, hơn nữa sẽ khám phá Phúc Âm được dùng vào một công cuộc có tầm mức bao la đến chừng nào. Các ông sẽ không choáng váng tê liệt, sẽ thật sự trở nên tông đồ vì mặc lấy sức mạnh từ Trên ban cho. Chúng ta không ngạc nhiên đọc câu: Họ trở lại Giêrusalem, lòng mừng khôn xiết. Như vậy, chứng kiến Chúa lên trời, các môn đệ tuyệt nhiên không kinh ngạc, trái lại vui mừng vô hạn. Tại sao? Ví các ông chắc hẳn bắt đầu hiểu rõ bí nhiệm về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúng ta dừng lại để suy niệm về việc Chúa chúc lành và niềm hân hoan không giải thích được của các môn đệ.
1) Giơ tay, Chúa chúc lành cho họ.
Các môn đệ lãnh nhận chúc lành của Thày, coi đó là cử chỉ của Thiên Chúa kết thúc một sự hoàn tất và mở màn cho một sự bắt đầu. Hoàn tất, vì thời gian Chúa sống giữa thế gian đã chấm dứt. Chúa vào vinh quang của Chúa Cha. Tác động của Đức Giêsu hiện diện hữu hình không còn nữa, sắp chuyển sang một thể thức tác động khác, đồng thời các môn đệ bắt đầu một cuộc trông đợi. Chúc lành của Chúa làm dậy lên trong các môn đệ một nghị lực sắp lớn mạnh nảy nở. Cử chỉ Chúa giơ tay ban phép lành biểu hiện sức mạnh của sự sống, của lòng bác ái và một nghị lực tràn ngập tâm hồn các ông, sắp biến đổi và hướng dẫn các ông thành toàn bản ngã và sứ mạng. Một ví dụ thực tế: Chúng ta nhắc lại rằng chúc lành nhân danh Đức Kitô của linh mục chủ tế lúc Thánh Lễ hoàn tất, biểu hiện sự hoàn tất và sự phái đi. Chúng ta có nhiệm vụ hoàn tất trong đời sống thực tế ơn lành nhận được trong Thánh Lễ, và chúng ta được phái đi vào thế giới làm chứng cho Đức Kitô.
2) Các môn đệ vui mừng mặc dầu Đức Giêsu vừa biến đi trước mắt các ông.
Chúng ta chúng ta nghĩ rằng các ông được sinh ra trong tình yêu đích thật của Thày, các ông không hề nghĩ về thân phận mình theo tính ích kỷ thường tình, trái lại được vui mừng nhìn Thày đi vào vinh quang của Chúa Cha. Tuy nhiên cho dầu tình yêu đầy vị tha tới đâu thì cũng phải có sự hiện diện của Thày. Có thể các môn đệ làm một cuộc thí nghiệm mới về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúa về trời trở nên gần gụi các ông hơn trước. Chúa biểu lộ sự hiện diện trong quyền năng thần thánh của Người, Chúa đem Thần Khí vào tâm hồn các ông. Tới đây chúng ta thấy vai trò đức tin là cần thiết. Điều tốt là các môn đệ nay trở thành chứng nhân cho Chúa phải tham dự vào kinh nghiệm đức tin mà tất cả chúng ta đều phải có, một niềm tin trong hân hoan không giải thích được, trải qua mọi gian nan thử thách. Niềm tin ấy sinh ra một niềm trông cậy hân hoan hơn nữa, vì lẽ ngày Chúa lên trời sẽ đưa tới ngày chúng ta sẽ vô cùng hân hoan, Chúa ở đâu, chúng ta cũng sẽ ở đó.
9. Hướng lòng về thượng giới – Lm Ignatio Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Khi con người chỉ biết nhìn xuống…
Người đàn bà có biệt danh là “bà lom khom” đã trở thành hình ảnh quá quen thuộc đối với những ai hay lui tới những công viên của thành phố nầy. Đã lâu lắm rồi, từ sáng tới chiều, ngày nầy qua ngày khác, người ta thấy bà lầm lũi cúi mặt xuống đất để tìm nhặt những đồng tiền xu mà khách nhàn du đánh rơi đâu đó trong các công viên. Người dân trong khu vực gọi bà là “bà-lom-khom” vì hình như mắt bà rất kém, phải khom gập người xuống mới có thể thấy được những đồng tiền rơi rớt đâu đó trong công viên. Hình như nghề nầy đem lại cho bà nguồn thu nhập khá lớn, nên ngày nào bà cũng khom người đi nhặt như con kiến cần cù, như con ong kiên nhẫn nhất.
Vì lúc nào bà cũng cúi gằm xuống đất, đôi mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn xuống để tìm những đồng xu lẻ, dần hồi cần cổ của bà cụp xuống, lưng còng hẳn đi đến nỗi bà không còn ngửng lên nhìn trời được nữa.
Thế là mặc dù kiếm được khá tiền, nhưng bà đã đánh mất cuộc sống. Bà chỉ biết có mặt đất mà không biết có bầu trời. Bà chỉ biết ky cóp những đồng tiền xu mà chẳng biết gì đến thế giới chung quanh!
* * *
Hình ảnh người đàn bà còng lưng trên đây là biểu tượng cho những người chỉ biết có thế giới vật chất mà đánh mất thế giới thiêng liêng.
Với tầm nhìn hạn chế, con người chỉ thấy gần mà không thể thấy xa, chỉ biết chú mục vào cuộc sống đời nầy mà lãng quên cuộc sống đời sau, chỉ biết vun quén của cải vật chất mà không lo làm giàu của cải thiêng liêng; chỉ biết kiếm tìm lạc thú trần gian mà lãng quên hạnh phúc đời đời… Họ chối bỏ Trời, quay lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế giới thiêng liêng!
Họ xem mặt đất nầy là quê hương duy nhất, họ xem nấm mồ như điểm đến cuối cùng của kiếp người. Cuộc đời của họ được thi hào Nguyễn Du diễn tả cách bi thương:
“Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”.
Như thế, đối với người không tin thì sống là hành trình tiến về ngôi mộ; còn đối với chúng ta, sống là hành trình tiến về thiên quốc.
Viễn tượng mới
Sự kiện Chúa Giêsu lên trời mở ra cho loài người một viễn tượng mới: Thế giới loài người không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ vật chất nhưng còn mở vào cõi vô biên. Cuộc đời con người không chấm dứt trong nấm mồ hoang nhưng vượt qua đó để tiến vào vĩnh cửu.
Như con ve chui lên khỏi đất, lột bỏ chiếc vỏ chật hẹp để đón chào thế giới mới, cất cao tiếng hát dưới ánh nắng mặt trời, con người cũng được mời gọi hãy vượt lên trên thế giới vật chất, đập bỏ lớp vỏ vật chất bó chặt đời mình để vươn vai trở thành tạo vật mới, sống đời sống mới.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta hướng về đích xa:
“Quê hương chúng ta ở trên trời” (Philip 3, 20)
Thế nên: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Col 3, 1-4)
Vậy chúng ta đừng chỉ lo phần xác mà quên mất phần hồn. Phải dành ưu tiên cho linh hồn chúng ta, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Chỉ dán mặt xuống đất mà không biết ngẩng lên nhìn trời thì vô cùng tai hại.
10. Chúa tin tưởng chúng ta.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Có một truyền thuyết xưa kia kể lại rằng: Khi Đức Giêsu hoàn thành sứ mạng dưới thế, Ngài trở về trời và được Thiên thần Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:
– Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?
Chúa Giêsu trả lời:
– Ta đã chọn 12 Tông đồ, một nhòm môn đệ và một vài phụ nữ. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thỏa mãn nên hỏi tiếp:
– Nhưng số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự trù nào khác không?
– Chúa Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là thiên thần Gabriel đã có lý khi nghi ngờ, tuy nhiên Ngài vẫn quả quyết:
– Đó là kế hoạch duy nhất Ta chọn. Ta không dự trù một kế hoạch nào khác cả. Ta tin tưởng vào họ.
Vâng, thưa anh chị em, mãi đến 20 thế kỷ sau, Chúa Giêsu vẫn không thay đổi kế hoạch Ngài đã chọn. Các Tông đồ đã không làm Ngài thất vọng và cả đám dân được họ rao giảng Tin Mừng cũng đã không phụ lòng Ngài. Và hiện giờ Ngài đang tin tưởng vào chúng ta.
Thật vậy, trước khi từ giã các môn đệ ngài để trở về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các ông trọng trách rao giảng Tin Mừng của Ngài và đã hứa ban cho các ông được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thân: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Vì thế, các môn đệ đã trở về, lòng tràn ngập hân hoan. Đây chính là lúc phải bắt tay vào việc. Chính nhờ vào niềm tin và nỗi vui mừng nầy, các môn đệ đã hăng hái ra đi rao giảng Tin Mừng sau khi được lãnh nhận Thánh Thần. Các ông không còn sợ hãi của những ngày Chúa chịu chết, nhưng đầy sức mạnh để dám đương đầu với tất cả những khổ đau, những thương tích mà chính các ông không thể trốn tránh được. Quả thật, các môn đệ của Chúa Giêsu đã không phụ lòng Ngài.
Cha Mark Link, S.J đã sánh ví ngày lễ Thăng Thiên như một cuộc chuyền cây gậy từ vận động viên nầy sang vận động viên khác trong một cuộc chạy tiếp sức. Cách đây hơn 2000 năm, vào ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã chuyền cây gậy sứ mạng của Ngài cho Phêrô, Giacôbê và Gioan… đến lượt họ, họ đã chuyền cho những người tiếp theo sau, rồi những người nầy lại chuyền cây gậy ấy đến chúng ta. Và giờ đây đến lượt chúng ta lại phải chuyền gậy cho những người kế tiếp.
Thực tế mà nói, điều nấy có nghĩa gì? Sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng về Chúa Giêsu như các Tông đồ đã làm mang ý nghĩa gì? Đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Chúa Giêsu bằng đời sống Kitô hữu của mình. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi người. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp thế giới. Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Chúa Giêsu vào cuộc đời mình thì họ sẽ thay đổi được bộ mặt trái đất nầy thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.
Anh chị em thân mến, Sứ điệp của ngày lễ Thăng Thiên hôm nay đưa ra cho chúng ta sự thách thức trước trước niềm tin tưởng mà Chúa Giêsu đã đặt nơi mỗi người chúng ta:
“Anh em là muối đất… anh em là anh sáng trần gian…” (Mt 5, 13 -16). Là men, là muối, là ánh sáng cho đời, cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ không làm cho Chúa Giêsu phải thất vọng.
Mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống, để làm chứng cho Chúa, để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quanh mình. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa của mình.
11. Hãy mang Chúa đến cho nhân trần
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta.
Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: “Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đó đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Nhưng, nếu là thập giá có Đức Kitô sẽ là một hiến tế thánh thiện, một của lễ hy sinh mang lại ơn ích cho chính mình và cho tha nhân. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang u sầu vì lầm than cơ cực. Bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Đức Kitô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Đây cũng là tin mừng mà Đức Kitô đang trao phó cho Giáo hội, cho mỗi người chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Đức Kitô sẽ biến thành thánh giá của hồng ân cứu độ. Thập giá làm chúng ta không vui. Thập giá làm chúng ta đau khổ. Nhưng chính nhờ những thập giá trong cuộc đời sẽ là nhịp cầu đưa tới tới bề bờ hạnh phúc vô biên.
Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Đức Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy nói cho họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Đức Kitô và trong Đức Kitô.
Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn cây dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. “Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giêsu. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: “Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu “Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo – Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Amen.
12. Thời kỳ của Giáo Hội – Flor McCarthy.
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. HIỆN DIỆN VÀ VẮNG MẶT
Vào ngày Lễ Thăng Thiên, Đức Giêsu đã rút lại sự hiện diện thể lý của Người đối với các môn đệ. Nhưng sự vắng mặt thể lý ấy không có nghĩa là chấm dứt sự hiện diện. Sự thăng thiên của Đức Giêsu là sự giải phóng của Người khỏi mọi giới hạn của thời gian và không gian. Nó không thể hiện vận động của Người trên mặt đất, nhưng sự hiện diện thường xuyên của Người ở mọi nơi trên trái đất.
Sự hiện diện thể chất không phải là tất cả. Thật vậy, một đôi khi, sự hiện diện có thể đạt được bằng con đường hiệp thông mật thiết. Trong đời sống chúng ta gặp nhiều nỗi thất vọng bởi sự kiện, sự gặp gỡ và tiếp xúc không phải lúc nào cũng tạo ra sự thân mật, gần gũi mà chúng ta tìm kiếm. Hai người có gần gũi nhau về mặt thể chất thế nhưng cuộc sống vẫn xa cách, cô đơn. Bởi lẽ không có sự gặp gỡ trong trí óc và tâm hồn. Họ giống như những vỏ sò trên bãi biển.
Mặt khác, người ta có thể rất gần nhau dù xa cách nhau hàng ngàn dặm. Đối với những người cùng nhau lớn lên, trưởng thành phải có những thời kỳ vắng mặt và hiện diện. Khi vắng mặt, chúng ta nhìn nhau bằng một phương thế mới mẻ. Chúng ta bớt bực bội nhau vì những cung cách bên ngoài, và có thể thừa nhận giá trị thật của nhau tốt hơn.
Nếu chúng ta có thể hiện diện trọn vẹn với bạn hữu khi chúng ta ở với họ thì sự vắng mặt của chúng ta cũng sẽ mang lại kết quả. Khi hồi tưởng sự hiện diện nồng nàn ấy hơi ấm của nó sẽ tiếp tục nuôi dưỡng người kia. Vì thế, không chỉ sự hiện diện của chúng ta mà cả sự vắng mặt của chúng ta cũng đem lại nhiều ơn ích.
Khi chúng ta nghĩ đến nhau trong sự yêu thương, một dây liên kết tinh thần hình thành ở giữa chúng ta và chúng ta bước vào một sự thân mật mới. Đối với những người yêu thương nhau, không có chỗ dành cho sự “xa cách”.
Đức Giêsu lên trời không phải là một cuộc hành trình ra ngoài không gian, nhưng là một cuộc hành trình về nhà, chúng ta không nên nghĩ rằng trước đó Người sống trên mặt đất, còn giờ đây Người lại trở lại nơi thật sự thuộc về Người. Nếu như thế thì Kitô giáo không hơn một tôn giáo của sự hoài niệm, hồi tưởng. Đức Giêsu đã về với Chúa Cha. Trong suốt sứ vụ ở trần gian, Người chỉ có thể ở một nơi và trong một thời gian. Nhưng giờ đây, Người đã hiệp nhất với Thiên Chúa, Người hiện diện bất cứ nơi nào Thiên Chúa hiện diện, có nghĩa là ở khắp mọi nơi.
Các Kitô hữu tiên khởi đã hiểu điều ấy rất rõ. Họ biết rằng Đức Giêsu vẫn ở với họ, cho dù không cùng một cách thức như trước đây. Họ tin rằng Người vẫn chia sẻ đời sống với họ, và cái chết có nghĩa là được hiệp nhất với Người trong vinh quang mãi mãi.
Tuy nhiên khi nhìn lại, chúng ta cũng thèm muốn được như những người có may mắn nhìn thấy Chúa Phục Sinh bằng chính mắt mình. Nhưng Tin Mừng cho biết những người ở trong tình huống đáng ao ước ấy đã không thật sự nhận ra Đức Giêsu cho tới lúc Người dẫn giải Kinh Thánh và bẻ bánh.
Là những Kitô hữu hôm nay, chúng ta cũng có những phương tiện như thế để nhận ra Chúa: Kinh Thánh và việc bẻ bánh. Về vấn đề gặp gỡ Đức Giêsu bằng đức tin, thế hệ đã qua không có nhiều đặc quyền hơn thế hệ hiện tại.
Đức Giêsu đã tín nhiệm các Tông đồ (và giờ đây tín nhiệm chúng ta) để Tin Mừng bảo đảm được rao giảng và được sống. Người cần chúng ta làm chứng cho sự hiện diện của Người trong thế gian.
Suy Niệm 2. NHÂN CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ
Trước khi rời xa các tông đồ, Đức Giêsu đã uỷ thác cho họ việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Để giúp họ thi hành sứ vụ ấy. Người hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cùng họ. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Người đã hoàn thành lời hứa ấy.
Nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới hiện nay tuỳ thuộc vào chúng ta. Chúng ta là những nhân chứng của Đức Kitô. Đó là một đặc ân to lớn nhưng là một nhiệm vụ luôn làm người ta chán nản. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể cậy đến sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng ta phải làm chứng như thế nào?
Có sự làm chứng bằng lời nói. Chúng ta làm chứng bằng việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Điều này có thể bao gồm việc giải thích đức tin và bảo vệ đức tin.
Có sự làm chứng bằng việc làm. Một cây táo không bao giờ cho trái táo sẽ là một chứng tá nghèo nàn đối với vườn cây ăn trái. Dù chỉ trái táo ngon cũng nói lên được một điều gì đó. “Chớ vao giờ khuyên bảo một điều gì mà bạn không thể làm gương về điều đó” (Thoreau).
Rồi có sự làm chứng bằng đời sống của mình. Cây cối làm chứng cho sự sống bằng chính sự hiện hữu của nó. Cao, thẳng, bất độn, chúng là những chứng tá im lặng nhưng hùng hồn của đời sống. Bông hoa làm chứng về cái đẹp đơn giản bởi vẻ đẹp phong phú của chúng. Và những Kitô hữu làm chứng bằng đời sống của họ. Bài giảng thuyết hùng hồn nhất là bài giảng thuyết thinh lặng bằng gương sáng. Ngày nay, người ta không còn muốn nghe những bài giảng về đức tin. Họ muốn nhìn thấy Tin Mừng trong hành động.
Sự làm chứng bằng đời sống của một Kitô hữu còn mạnh mẽ hơn bất cứ lý luận nào. Có những người mà đời sống của họ toả sáng chứng cứ về quyền năng biến đổi của đức tin. Trong đời sống của họ, đức tin là một ngọn lửa sáng, giữa đời sống của những người khác, đức tin là một ánh sáng lờ mờ hoặc một tia lửa bất chợt. Dù có mọi giới hạn và khuyết điểm của con người, nếu một người sống đơn sơ, lấy Đức Kitô làm mẫu mực thì người ấy là dấu chỉ về Thiên Chúa và về những thực tại siêu việt.
Chứng tá của Tin Mừng mà thế giới cho rằng có thể kêu gọi người ta nhiều nhất là sự quan tâm đến con người, là việc làm bác ái hướng về người nghèo, người yếu đuối và người chịu đau khổ. Sự quảng đại được nhấn mạnh trong thái độ và các hành động đó nổi lên sự tương phản với tình vị kỷ của con người. Nó đưa ra những vấn đề chính xác dẫn đưa người ta đến với Thiên Chúa và đến với Tin Mừng. Một cam kết với hoà bình, công lý, nhân quyền là một sự làm chứng cho Tin Mừng.
Có một cấp độ thứ tư của việc làm chứng, đó là làm chứng với cái chết của mình. Nhưng điều này không đòi hỏi mọi người hoặc ban cho mọi người. Đây không phải là con đường êm ái và dễ dàng, nhưng là một con đường đòi hỏi một tính kiên trì, sức mạnh và lòng can đảm đặc biệt.
Thế giới ngày nay có một sự khao khát mãnh liệt Đức Kitô của Tin Mừng. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: “Anh em hãy ở lại thành đô, cho đến lúc mặc lấy quyền năng từ trên cao”. Quyền năng nói ở đây là quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần có chính quyền năng này, nếu chúng ta làm chứng cho Đức Giêsu. Và ai làm chứng sẽ chia sẻ vinh quang của Người.
CÂU CHUYỆN KHÁC.
Ngày xưa, có một người cha có mười hai người con. Dù ông đều yêu thương các con, ông vẫn có một tình thương dịu dàng với đứa con áp út tên Giuse. Những người con khác ganh tỵ với Giuse và quyết định giết anh. Tuy nhiên, vào giây phút cuối cùng, họ đổi ý. Thay vì giết em, họ bán em cho những thương gia đi ngang qua đó, họ nói với cha họ rằng người em đã bị thú giết chết.
Giuse bị xích lại và đưa sang Ai Cập, ở đó ông được bán như một người nô lệ. Ông có một đời sống cùng cực, hèn kém. Dsư5 việc còn tệ hơn, khi ông bị vu khống và bị giam vào ngục tối. Dù xung quanh là những tội phạm cứng lòng, ông vẫn tiếp tục tín nhiệm vào Thiên Chúa và sống một đời sống tốt. Ông cũng làm bạn với các tội phạm. Cuối cùng ông làm rạng danh ông và được tha.
Lúc đó, như thấy trước nạn đói khủng khiếp sẽ đến, ông đã cảnh báo nhà vua phải truyền lệnh cho dân tiết kiệm ngũ cốc. Nhà vua không chỉ theo lời khuyên của ông mà còn đặt ông làm quản lý công việc. Giuse đã hoàn thành công việc một cách xuất sắc.
Nạn đói đã xảy ra như dự kiến và dân chúng có thể lấy lúa gạo tích trữ ra dùng. Nhưng trong các nước láng giềng, tình trạng trở nên tồi tệ. Dân chúng các nước kéo nhau về Ai Cập để tìm mua ngũ cốc. Và nhà vua nói với họ: “Hãy đến gặp Giuse”.
Một ngày kia, anh em của Giuse đã đến Ai Cập để mua ngũ cốc. Khi họ nhận ra ông họ run sợ. Nhưng thay vì trả thù, Giuse đã tiếp đãi tử tế, và cho họ đầy đủ ngũ cốc mà họ cần. Ông nói với họ hãy trở về nhà và đưa cha họ đi theo họ trở lại Ai Cập cho ông gặp.
Người cha già rất đỗi vui mừng khi nghe nói rằng đứa con trai thân yêu của ông vẫn còn sống. Các anh của Giuse đã phạm phải một hành động ác độc chống lại ông. Nhưng qua đó, điều tốt lành đã đến với ông. Ông có thể cứu các anh mình khỏi nạn đói và làm cho cho cả nhà được đoàn tụ.
Câu chuyện của Giuse là một trong những câu chuyện cao cả nhất của Kinh Thánh. Ông Giuse là hình ảnh của Đức Giêsu, Chúa Con yêu dấu của Chúa Cha, đã bị anh em Người bán đi, bị giết chết, nhưng giờ đây đã được Chúa Cha cho sống lại và đặt Người ở bên hữu Chúa Cha trong vinh quang. Từ vị trí cao trọng ấy, Người cứu chuộc chúng ta, anh chị em của Người khỏi tội lỗi và cái chết đời đời. Và Người tìm kiếm để quy tụ mọi thành phần còn tản lạc của gia đình Thiên Chúa.
Ngày hôm nay chúng ta cử hành sự thăng thiên của Đức Giêsu. Người lên trờ ngự bên hữu Chúa Cha. Đây là một ngày vui vẻ. Nhưng Người đã cho chúng ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Không phải là phân phát ngũ cốc, nhưng là rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.
13. Suy niệm của R. Gutzwiller
Ý nghĩa Phục sinh
‘Đức Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết, rồi phải nhân danh Ngài rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi –khởi từ Giêrusalem’. Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh sẽ là Đấng mà lề luật, các tiên tri và thánh vịnh đã hứa. Biến cố daỳ vò các tông đồ không phải là cái gì khác hơn là sự thực hiện chương trình vĩ đại về việc cứu độ của Thiên Chúa. Được phác hoạ trong Cựu ước và hoàn thành trong Tân ước. Đường dây nối mọi sách thánh lại là Đấng Messia đến, hành động, hy sinh. Và kết quả riêng tức ý nghĩa sâu xa nhất là sự thứ tha tội lỗi cho mọi dân moị nước. Phổ quát tính của ơn cứu độ, ý nghĩa bao quát của hy sinh thập giá được diễn tả qua những lời đó. Hy sinh thập giá là hy tế đem lại ơn cứu chuộc. Và Đấng Thiên Sai khi hoàn tất hy tế ấy đã trở nên ơn cứu độ cho Israel cũng như cho cả nhân loại.
Loan báo Phục sinh
‘Các anh em là những chứng nhân về điều đó’. Sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết và đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố, rồi từ biến cố ấy thành lịch sử. Và lịch sử đó không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh, của một vị Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về sự kiện ấy. Đó là làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi phải bằng máu nữa. Đã làm chứng được như vậy, con người phải đón nhận sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa ‘Ta sắp sai đến trên anh em, điều Cha Ta đã hứa’. Chính Chúa Thánh Linh là chứng tá đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài bằng việc rao giảng. Bởi thế, sự Phục sinh của Chúa Kitô là nội dung chính cốt của sứ điệp Kitô giáo qua các lời giảng dạy của các tông đồ cũng như qua sách công vụ và các thơ, đứng trước biến cố trọng đại ấy, tất cả đều phai nhoà đi hết. Việc rao giảng Kitô giáo không phải là trình bày các qui luật luân lý, giảng giải các chân lý giáo điều hoặc trình bày cuộc đời Chúa Giêsu, nhưng sự rao giảng ấy trước hết là một khẳng định rõ về cái chết và sự Phục sinh của Chúa, vì đó là những yếu tố trung tâm của lịch sử ơn cứu độ.
TỪ BIỆT
Đây là lần cuối cùng Chúa Giêsu ở giữa các tông đồ. Ngài ở giữa họ để nói lên lời từ biệt. Sự việc xảy ra gần Bêtania ở cửa thành thánh. Thánh Luca trình bày sự kiện này hết sức ngắn gọn, nhưng Ngài sẽ trở lại vấn đề trong chương Tin mừng sách Công Vụ với nhiều chi tiết hơn là ở đây, khi nói đến việc Chúa về Trời. Theo Tin mừng ta thâý việc kết thúc sứ vụ loan báo Tin mừng
1. Đức Kitô
Chúng ta được biết Đức Kitô từ biệt các tông đồ đang khi các Ngài chúc lành cho họ. Ngài không còn giảng dạy và ra lệnh gì nữa. Mọi cái mờ ám đều biến dạng. Cho dầu cuộc khổ nạn, việc Phêrô chối Chúa, sự nghi ngờ Chúa sống lại và sự phập phồng sau lần hiện ra cuối cùng. Mọi sự đều được sáng tỏ. Tất cả đều kết thúc tốt đẹp bằng phúc lành của Chúa, Đấng sẽ ban cho họ sinh lực để sống dù Ngài không còn hiện diện trước mắt nữa, và để họ hành động và tiếp tục sự nghiệp, họ sẽ giữ kỷ niệm sống động, việc Thày chúc lành.
Chúa lên trời chẳng qua là sự Người trở về cùng Chúa Cha và được biến hình cả thể xác lẫn tình thần, việc Chúa lên trời đó đối với các môn đệ cũng là một dấu chỉ tối cao về việc Ngài trở lại và nhờ đó, các ông cũng được lên trời. Từ giờ đó, họ biết rằng đời họ là một cuộc hành trình tiến về ánh sáng và bất chấp mọi trở ngại của cuộc sống trần gian cũng như quân thù bách hại, mọi chuyện sẽ hoàn tất trong ánh sáng của sự biến hình.
2. Các tông đồ
Họ quì gối xuống và thờ lạy. Họ không còn u tối, sợ sệt, phập phồng, hồ nghi gì nữa. Vì thế họ tin kính thờ lạy. Việc Ngài Phục sinh và lên trời chứng minh rõ ràng cho họ biết nguồn gốc cũng như bản tính Thiên Chúa của Ngài và Ngài được cất nhắc lên ngự bên hữu Chúa Cha. Thờ lạy, thán phục chỉ là cách thức nói lên sự hân hoan của họ. ‘Rồi họ trở lại Giêrusalem, vui mừng khôn xiết, và hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa’. Tin mừng kết thúc trong niềm hoan lạc, việc Chúa trở lại ‘uy nghi’ cho các tông đồ có cơ hội tôn vinh Ngài. Khi nhìn lại, khi nhớ đến lời truyền tin cho Giacaria và Đức Maria, khi nhớ lại các sứ điệp các thiên thần gởi cho các mục tử, nhớ đến việc dâng Chúa trong Đền thờ, rồi ơn kêu gọi riêng họ, việc họ thông dự vào quyền giảng dạy và làm các phép lạ của Chúa, từ đây họ hiểu rằng mọi sức đối kháng của thù địch đều không làm gì được và qua cuộc khổ nạn và thập giá Chúa, sự đối kháng ấy cũng góp phần vào việc đặt nền cho hoạt động cứu thế đúng nghĩa, cho hy tế cứu chuộc để cứu rỗi thế giới, sau cùng họ thấy rằng Chúa biến hình, từ đây không còn khổ đau nữa, thì họ chỉ còn biết tạ ơn Thiên Chúa với lòng thành tín khôn tả. Kế hoạch Ngài đã thực hiện, sự nghiệp Ngài đã hoàn thành, vinh quang Ngài đã tỏ hiện cho loài người. chính Thánh Luca đã kết thúc Tin mừng của ông bằng thánh thi ngợi khen vậy.
14. Chúa lên trời
Cách đây mấy ngàn năm, khi khoa học về vũ trụ chưa được phát triển, dân Do Thái cũng như những dân tộc vùng cận đông thường có một cái nhìn đơn sơ về vũ trụ. Họ coi trái đất là như một chiếc mâm, chung quanh đất là biển, dưới lòng đất là âm phủ, nơi ở của những người đã khuất. Còn bầu trời là như cái lồng bàn úp lên trên đất và biển. Trên chiếc lồng bàn này có nhiều thứ kho: kho nước, kho mây, kho gió, kho tuyết, kho sương mù. Mỗi khi Thiên Chúa mở cửa những kho này là chúng ta lập tức sẽ có những hiện tượng thiên nhiên tương ứng.
Vòm trời cũng là nơi Ngài treo các vì tinh tú để soi sáng cho mặt đất. Thiên Chúa ngự trên chốn trời cao cùng với các thiên thần. Vậy khi nói Chúa Giêsu được đưa lên trời, thì có nghiã là Ngài được đưa vào thế giới của Thiên Chúa. Ngài được tôn vinh bên Chúa Cha, sau khi đã hoàn tất công trình cứu độ nhân loại.
Đối với chúng ta thì hơi khác một chút. Điều cốt lõi của biến cố Chúa về trời không phải là chuyện Chúa đã bay lên, thoát khỏi sức hút của trái đất, mà là mầu nhiệm Ngài được Chúa Cha nâng dậy từ cõi chết và đưa vào chung hưởng vinh quang bên Chúa Cha. Nơi ở của Thiên Chúa là thiên đàng. Nhưng thiên đàng ở đây, chúng ta không được rõ. Toan tính đi tìm thiên đàng bằng một con tàu vũ trụ điều đó chỉ đưa đến thất vọng và chứng tỏ một thái độ ấu trĩ, vì thiên đàng nằm ngoài khả năng cảm nhận của giác quan, như lời thánh Phaolô: Tai chưa hề nghe, mũi chưa hề ngửi và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những điều Thiên Chúa dành cho những người trung thành phụng sự Ngài. Chúng ta không thấy thiên đàng nhưng thiên đàng còn có thực hơn cả vũ trụ hữu hình này, bởi vì thế giới của con người sống nhờ vào thế giới của Thiên Chúa.
Mặc dù Chúa đã về trời nhưng Ngài vẫn còn ở lại với chúng ta luôn mãi; bởi vì lên trời không phải là đi vào một thế giới xa lạ với thế giới loài người và cắt đứt mọi liên hệ với trần thế… Tuy chúng ta không còn thấy Ngài một cách hữu hình nhưng Ngài vẫn tiếp tục hiện diện giữa chúng ta dưới những hình thức khác.
Chúng ta có thể gặp Ngài qua những kỳ công trong vũ trụ. Chúng ta có thể gặp Ngài qua những lời giảng dạy. Chúng ta có thể gặp Ngài qua Bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể gặp Ngài qua Giáo Hội. Chúng ta có thể gặp Ngài nơi những người anh em, nhất là những kẻ khổ đau và bất hạnh. Như thế Ngài được tôn vinh lên trời không phải là làm một cuộc đi xa, nhưng trái lại là một cuộc đến gần. Phục sinh và Lên Trời là để làm tròn sứ vụ giữa lòng thế giới. Chính vì thế mà Ngài đã truyền cho các môn đệ cũng như cho chúng ta phải tiếp tay với Ngài: Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Bởi đó, hãy chu toàn bổn phận của chúng ta, bằng cách sống đức tin và đem đức tin đến cho những người chung quanh, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta sẽ được chia sẻ niềm hạnh phúc thiên đàng với Ngài.
15. Chứng nhân
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Trước khi từ từ lên cao, Ngài đã ban huấn lệnh: “Các con sẽ là chứng nhân cho Ta tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđêa, Samaria, và cho đến tận cùng cõi đất”.
Các môn đệ đã chứng kiến cuộc khải hoàn vinh hiển của Chúa, họ không thể nào im tiếng được. Họ đã mạnh mẽ xác quyết: “Thiên Chúa đã phục sinh Chúa Kitô mà anh em đã giết rồi treo lên cây gỗ… và tôn Ngài làm thủ lãnh và Đấng cứu độ để đem lại cho Israel ơn tha thứ và hoán cải. Về những sự việc đó chúng tôi đây là những chứng nhân cùng với Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng phục Người”, “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại để chúng ta được nên công chính”…
Tất cả các môn đệ đều bị bách hại đến đổ máu ra vì chứng cớ đức tin và lời rao giảng của mình. Và sau họ, từng lớp lớp người cũng đã ngã gục chỉ vì tin vào Đấng Phục Sinh.
Đối với chúng ta là những kẻ đã tin, đến lượt chúng ta cũng phải làm chứng về Ngài, không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng chính đời sống chúng ta nữa. Chúng ta hãy chứng tỏ cho thế giới biết rằng cuộc sống thường ngày là những bước tiến lên với Chúa Kitô, và những thử thách, hy sinh là cần thiết để thanh luyện và làm sáng tỏ đức tin của chúng ta.
Chúng ta tiến lên trời với Chúa Kitô bằng kiên nhẫn, hy sinh… hầu biểu lộ đức ái, bởi vì đức ái là khát vọng Thiên Chúa và làm điều lành cho tha nhân. Điều đó có nghĩa là chúng ta chờ đợi thời giờ của Thiên Chúa và giúp mọi người phương tiện tiến lên với Thiên Chúa. Đức ái là thái độ phản ánh trung thực nhất niềm khát vọng nội tâm của chúng ta.
Đời sống tu trì là một minh chứng cho niềm khát vọng lên trời trong chờ đợi nhẫn nại và hy sinh. Quả vậy, vì tin ở lời hứa của Chúa sẽ ban gấp trăm ở đời này và đời sau được sống muôn đời mà chúng ta đã từ bỏ tất cả để theo Ngài. Điều Chúa Kitô hứa, Ngài đã đang và sẽ còn thực hiện. Hạnh phúc mà Ngài ban cho những ai theo Ngài chính là niềm hoan lạc trong tâm hồn, hoan lạc của những ai có Chúa làm tất cả. Niềm hoan lạc đó là hiệu quả tất nhiên của sự bình an, bình an của những kẻ ẩn náu trong tình thương Chúa. Và những gì do tình thương Chúa gửi đến đều tốt lành. Ngay cả cái chết cũng là dịp để chúng ta vui mừng, vì chết là cánh cửa cuối cùng được mở ra cho chúng ta gặp Chúa Kitô Phục Sinh – Thăng Thiên mà chúng ta yêu mến kiếm tìm.
Hỡi những ai tìm Chúa, tâm lòng hãy vui sống và chúc tụng Thiên Chúa là Cha Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã tái sinh chúng ta cho hy vọng sống động, nhờ sự phục sinh – thăng thiên của Ngài.
16. Chúa lên trời
Khi còn ở với các môn đệ, đã nhiều lần Chúa Giêsu nói trước là Ngài sẽ về trời, giờ đây là lúc Ngài thực hiện điều đó. Việc Chúa Giêsu lên trời mãi mãi là một huyền nhiệm. Dùng ngôn ngữ loài người để tả một huyền nhiệm của Trời thì thật khó biết bao. Nhưng điều quan trọng là biến cố đã xảy ra. Thật khó mà tưởng tượng rằng sự xuất hiện của Chúa Giêsu cứ thưa dần, thưa dần cho tới khi tắt hẳn. Nếu thế đức tin con người sẽ tàn lụi. Nếu như Chúa Giêsu biến thành Đấng Kitô của cõi trời và không còn liên hệ gì với cõi trần này, lúc đó chúng ta sẽ rơi vào khủng hoảng.
Đối với các Kitô hữu, sự thăng thiên của Chúa Giêsu có ba ý nghĩa:
1) Đó là sự kết thúc. Một giai đoạn đã qua và một giai đoạn khác bắt đầu.
Ý nghĩa trọng đại của việc Chúa thăng thiên là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho tới đời đời. Tác giả thư Do thái viết: “Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người, và cầm giữ vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài; sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi. Ngài đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cửu trùng” (Dt 1,3). “Không phải nhờ máu dê hay máu bê, nhưng là nhờ chính Máu của Ngài, Ngài đã vào thánh điện — duy chỉ một lần — sau khi đã thành đạt việc cứu chuộc muôn đời” (Dt 9,12). Chúa Giêsu đã làm xong công tác cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại để ban cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một vị Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng đời đời vượt khỏi thời gian và không gian.
2) Và như vậy đây là một khởi đầu
Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải với tấm lòng sầu muộn, vì họ biết rằng từ nay không gì có thể ngăn cách mình với Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô?” (Rm 8,35) và ông khẳng định: “Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù là hiện tại hay tương lai, hay quyền năng, dù là chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào khác, không gì sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu Chúa chúng ta!” (Rm 8,38-39)
3) Hơn thế nữa, sự thăng thiên của Chúa quyết chắc với các môn đệ rằng họ chẳng những có một người Thầy ở thế gian mà còn có một người Thầy ở trên trời nữa.
Thánh Phaolô thách thức: “Ai sẽ cáo tội những kẻ Thiên Chúa đã chọn — Thiên Chúa đã giải án tuyên công, ai sẽ là người lên án? — Phải chăng là Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa, và là Đấng đang chuyển cầu cho ta” (Rm 8,33-34)
Chẳng hề có ai, vì Chúa đã chết đền tội chúng ta, đã sống lại làm Cứu Chúa của chúng ta và hiện đang ngồi bên hữu cầu thay cho chúng ta như một trạng sư. Bên hữu Cha là chỗ có thế lực, có uy quyền nên sự cầu thay của Chúa Giêsu rất linh nghiệm.
Còn một điều quan trọng hơn nữa, sự thăng thiên của Chúa Giêsu là điều kiện để Ngài sai Chúa Thánh Thần xuống, mà chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm này vào Chúa nhật tới.
Nếu chúng ta biết Chúa Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các thánh đã yêu mến, đã yêu mến một quê hương tốt hơn -quê hương trần gian- mà các ngài gọi là quê hương trên trời. Thánh Phaolô khuyên chúng ta là những người cùng chết, cùng sống lại với Chúa Giêsu cũng sẽ được cùng cất lên trời để gặp Ngài: “Vậy đã cùng sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Lòng trí hãy hướng về những điều trên cao, đừng (hướng) về những điều dưới đất. (Cl 3,1-2)
Chúng ta phải cẩn thận về điều thánh Phaolô muốn nói ở đây, chắc chắn Ngài không hề biện hộ cho việc mơ tưởng tới một thế giới khác khiến những người tin Chúa tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngưỡng cõi đời đời mà thôi. Vì ngay sau đó, thánh Phaolô tiếp tục quy định một loạt các nguyên tắc đạo đức vạch rõ rằng người Kitô hữu cứ tiếp tục công việc ở đời này và duy trì mọi mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình phải quan tâm đến, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi đời đời. Rõ ràng điều ấy sẽ đem đến cho người Kitô hữu một loạt các giá trị mới. Kitô hữu sẽ không còn bận tâm đến những điều mà người thế gian xem là quan trọng nữa. Các tham vọng đang ngự trị thế gian sẽ bất lực và không thể làm cho người ấy vướng bận nữa. Người ấy sẽ tiếp tục sử dụng những điều thuộc về thế gian này nhưng trong một cách thức mới. Người ấy sẽ đặt việc ‘cho đi’ lên trên việc ‘thu góp’, phục vụ trên cai trị, tha thứ ở trên báo thù. Tiêu chuẩn về giá trị của người ấy sẽ là tiên chuẩn của cõi trời chứ không phải cõi đời.
Khi người thanh niên giàu có đến xin Chúa Giêsu chỉ cho anh phương cách để được sống vĩnh cửu. Chúa bảo anh về đem tài sản phân phát cho kẻ nghèo để được của cải trên trời. Điều gì đã làm vì tình yêu sẽ bền vững muôn đời.
Thật an ủi khi biết rằng Đấng chờ đợi ta ở trên trời cũng là Đấng đã, đang bao bọc ta ở dưới đất.
17. Chúa lên trời – Lm. Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu lên trời, nhưng Ngài vẫn ở với con người cho đến tận thế. Xin cho ki-tô hữu được nên giống Đức Giêsu mỗi ngày một hơn.
Đức Giêsu lên trời
Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ suốt bốn mươi ngày sau khi Ngài sống lại. Trong thời gian này Người đã ăn uống với các ngài, dạy dỗ các ngài nhiều điều; rồi đến thời đã định, Người đã lên trời trước mắt các ông.
Phải hiểu điều này như thế nào, khi người thời nay biết trái đất tròn; như vậy, trời phía trên đầu của người ở Việt Nam, lại là hướng dưới chân của người ở Mỹ, và ngược lại. Một phi hành gia bay lên vũ trụ, trời là khoảng không đối với họ! Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu không lên trời, nhưng ở lại với con người cho đến ngày tận thế: “Này đây Thầy ở cùng anh em cho đến ngày tận thế” (Mt.28, 20). Làm sao trả lời cho con người ngày nay về việc hai trình thuật dường như trái ngược nhau?
“Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, là một cách nói dùng để chỉ Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, làm gì có tay phải tay trái như con người. Đây là cách nói nhân hình, nghĩa là, nói về Thiên Chúa theo kiểu con người. Để hiểu đúng, không được hiểu theo nghĩa đen. Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, nghĩa là, Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Các ngươi là chứng nhân về những điều này
Không phải tất cả mọi người đều được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Chỉ có một số người được chọn, mới được diễm phúc này, và họ trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Các tông đồ là những người được thấy Chúa, và các Ngài đã là những chứng nhân anh dũng của Đấng Phục Sinh qua việc dùng chính mạng sống mình để làm chứng. “Ngu gì” để chết cho điều không thật hoặc không quan trọng! Sẵn sàng chết để làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh, làm cho điều các tông đồ rao giảng “đáng tin”.
Các tông đồ đã chết. Các ki-tô hữu là những môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt mình, các ki-tô hữu được mời gọi trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh cho con người thời đại hôm nay.
Các tông đồ đã chết để làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Ki-tô hữu hôm nay được mời gọi để sống yêu thương, như dấu chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi ki-tô hữu trong thế giới này. Yêu, đòi phải hy sinh, và cũng là một cách “chết” cho người yêu.
Nên giống Đức Giêsu
Đức Giêsu là thượng tế, là của lễ và bàn thờ. Lời Thiên Chúa nhập thể vì yêu con người, Ngài đã chết để đền tội con người, để con người không phải chết vì tội mình nữa nhưng được sống, vì có người đã chết thế cho mình.
Đức Giêsu dùng chính máu Ngài để thanh tẩy tội lỗi con người. Ngài thương cảm con người với những yếu đuối và giới hạn của họ. Ngài đã trải qua tất cả những gian nan thử thách, để con người có can đảm tới với Ngài.
Là người, anh chị em với nhau. Mỗi người phải trở nên một “Giêsu khác” để thông cảm và nâng đỡ anh chị em mình. Mỗi người được mời trở nên giống Đức Giêsu, bằng “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, Đức Giêsu Phục Sinh bây giờ đang ở đâu? Xin giải thích.
2. Trong đời tu hoặc đời sống ki-tô hữu, người ta thường nói tới “cái chết không đổ máu”, bạn hiểu điều này như thế nào? Cho thí dụ.
3. Người nên giống Đức Giêsu nhất, là người có những đức tính nào?
18. Lên trời
Qua Phúc Âm, chúng ta biết: sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn ở trần gian bốn mươi ngày. Trong suốt quãng thời gian này, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Các ông có diễm phúc được nhìn thấy Ngài, được ăn uống với Ngài. Tất cả những sự việc ấy đã tạo nên cho các ông một niềm xác tín: Ngài đã phục sinh.
Cũng trong thời gian ấy, Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho cuộc ra đi của mình. Ngài nói với các ông:
– Ta sẽ trở về với Cha Ta, cũng là Cha của các con, về với Thiên Chúa của Ta, cũng là Thiên Chúa của các con.
Thế nhưng, các ông đã không hiểu được lời nói mầu nhiệm này. Sau cùng, Ngài đã gặp các ông trong phòng tiệc ly, tâm sự với các ông và khi bữa ăn kết thúc, theo thông lệ, Ngài dẫn các ông lên núi Cây Dầu.
Các ông đi qua đường phố Giêrusalem, xuống thung lũng Cêdron, theo con đường Ngài đã bước đi trong cuộc tử nạn. Chắc hẳn khi đi lại con đường ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đã nói chuyện, đã hàn huyên với nhau rất nhiều.
Khi tới núi Cây Dầu, Chúa Giêsu và các môn đệ đã đưa mắt nhìn chung quanh và đã thấy được toàn cảnh thành phố Giêrulem với miền đất hứa. Chúng ta hãy cùng các tông đồ đứng trên đỉnh núi Cây Dầu và đưa mắt nhìn: Gần đấy là Bêtania, nơi ba chị em Martha, Maria và Lagiarô sinh sống. Họ là những người được Chúa yêu và cũng là những người yêu Chúa.
Về phía bên trái là Bêlem, nơi Ngài mở mắt chào đời. Rồi sau đó là những vệt trắng. Đó là những con đường từ Giêrusalem đi tới những thôn làng, những thị trấn của xứ Giuđêa. Hẳn rằng các tông đồ đã nhớ tới biết bao nhiêu kỷ niệm trên những nẻo đường quen thuộc này: nào là những việc kỳ diệu Chúa đã làm, nào là những lời lẽ khôn ngoan Chúa đã dạy. Xa hơn một chút là dòng sông Giócđan, nơi các tông đồ sống lại những kỷ niệm đầu tiên, khi gặp Chúa và được Ngài kêu gọi.
Còn về phía bên phải: xa xa là biển cả. Những con tàu nhổ nheo đi về Rôma, cũng như đi về những miền khác nhau của dân ngoại. Có lẽ chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ:
– Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Trong thâm tâm, Ngài muốn bảo các ông rằng:
– Hy lễ của Ta đã hoàn tất. Công việc của Ta đã kết thúc. Bây giờ đến lượt các con. Vậy các con hãy đi loan truyền Tin mừng cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Có lẽ các tông đồ đã trả lời:
– Vì tình yêu và vinh quang của Chúa, chúng con sẽ làm tất cả.
Sau đó, Chúa Giêsu đã lên trời. Còn các tông đồ thì ngạc nhiên nhìn theo cho đến khi thiên thần hiện ra và bảo:
– Các ngươi đứng nhìn làm chi. Đức Kitô đã về trời thế nào thì Ngài cũng sẽ trở lại như vậy.
Hẳn chúng ta đã biết: Ngài sẽ trở lại vào ngày tận thế. Rồi sau đó lại sẽ về trời. Nhưng về trời lần này, thì cùng với Ngài còn có tất cả những người đã tin theo và yêu mến Ngài.
Chính vì thế, các tông đồ không hề buồn phiền, vì các ông biết rằng đây chỉ là một cuộc tạm biết, chứ không phải là một cuộc ly biệt, vĩnh viễn chia cắt đôi ngả. Ngài sẽ trở lại và các ông sẽ lại được xem thấy Ngài. Trong lúc chờ đợi, các ông ra sức chu toàn sứ mạng Ngài đã trao phó, đó là rao giảng Tin mừng, làm chứng về Ngài.
Với chúng ta cũng vậy. Mổi khi tham dự thánh lễ, chúng ta có diễm phúc được ở gần Chúa, được lắng nghe lời Ngài. Thế nhưng, trước khi thánh lễ kết thúc, qua môi miệng của vị linh mục, Chúa cũng nói với chúng ta:
– Lễ xong, chúc anh chị em ra về bình an.
Điều đó có nghĩa là: hãy ra về để chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Hãy ra về để rao giảng Tin mừng. Hãy ra về để làm chứng cho Chúa giữa lòng cuộc đời.
19. Chứng nhân
Dù chỉ là một nữ tu sáng lập đơn côi ban đầu, mẹ Têrêsa đã làm nên phép lạ cho dòng Thừa Sai Bác Ai của mẹ lên đến 4000 nữ tu, 450 sư huynh và hàng ngàn người ngoại giáo ngày đêm xuôi ngược tiếp tục công việc nhân ái của mẹ, với 600 cơ sở và 126 quốc gia trên thế giới. Từ ngày thành lập từ năm 1950 đến nay mỗi năm nhà dòng của mẹ đã giúp nuôi 50.000 gia đình nghèo, dạy dỗ cho 20.000 trẻ em và săn sóc cho 90.000 người mắc bệnh phong cùi trong các bệnh viện riêng ở 10 quốc gia. Các trẻ em mồ côi mà mẹ đã nuôi dạy từ hơn nửa thế kỷ nay nhiều không kể xiết.
Ngày mẹ qua đời, tổng thống pháp Jacques Chirac đã gởi một bức điện với lời lẽ đau buồn như sau: “Buổi tối hôm nay đã có ít Tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và ít ánh sáng hơn trên thế giới này”.
Mẹ Têrêsa quả là một chứng nhân anh dũng. Mẹ không chỉ tin đạo mà còn sống đạo để làm chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa cho thời đại hôm nay.
Bài tin Mừng hôm nay kết thúc Tin Mừng thánh Luca, kể lại việc Chúa Giêsu dạy dỗ các tông đồ lần cuối cùng, sai các ông đi rao giảng và làm chứng cho Ngài rồi Ngài lên Trời.
Sách Công vụ tông đồ trình bày cho chúng ta biết biến cố lên trời là một sự hoàn tất gắn với một khởi đầu. Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng cứu độ trần gian và khởi đầu cho sứ mạng làm chứng nhân của Giáo Hội.
Điều mà bài tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, không phải là việc Chúa Giêsu được đem lên trời cách kỳ diệu mà là việc các tông đồ được sai đi để loan báo một Tin Mừng mới lạ, một Tin Mừng cho muôn dân. Đó là Tin Mừng về việc cứu độ.
Các Tông đồ đón nhận lời mời của Chúa Giêsu trong niềm tin tưởng và hân hoan. Tin vào Chúa Giêsu đã phục sinh và lên trời. Tin Ngài sẽ ban Thánh Thần để giúp các ông thi hành sứ mạng mới. Hân hoan vì mỗi người đều được Chúa Giêsu tin tưởng và sai đi.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ, những chứng nhân tích cực sẽ không ngừng làm chứng cho các giá trị Tin Mừng, cho đến tận thôn cùng xóm vắng.
Đức Giêsu đã lên trời, nhưng bằng ngày vẫn có muôn vàn chứng nhân tiếp bước Ngài, đón nhận, sáng tạo và đi xây dựng cho thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
Họ cũng là những người gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu. Họ không chấp nhận một trật tự bất công, một thế giới thiếu vắng tình thương trong đó một số người giàu có dư dật trong khi hàng vạn người phải lang thang đói rách. Họ là những kẻ gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu, vì họ làm hết cách để người ta tin rằng, nhân loại có thể ngày một tiến gần hơn đến công bình, tha thứ và tình thương.
Để làm những việc ấy chính các Tông đồ và những chứng nhân tiếp nối các Tông đồ trong Giáo hội chấp nhận sự hiểu lầm, chống đối, đau khổ, tù đày và cả cái chết. Bởi họ luôn có sức mạnh của Chúa Thánh Thần và xác tín vào niềm tin Chúa Giêsu phục sinh.
Chính anh em là chứng nhân.
Hôm nay cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa Giêsu lên trời và cũng đã nghe nhiều lần lời mời gọi của Chúa Giêsu “phải rao giảng cho muôn dân… chính anh em là chứng nhân”. nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi đó với niềm tin tưởng và hân hoan không? hay chúng ta nghĩ đó là công việc của các linh mục, của tu sĩ nam nữ.
Hơn bao giờ hết cuộc sống của hôm nay đã có không ít những khó khăn đang đặt ra cho mỗi gia đình và cho mỗi người chúng ta. Những khó khăn đó đã làm cho chúng ta quên đi đời sống chứng nhân của mình. Tuy nhiên cũng có những người trong chúng ta sống dửng dưng, không quan tâm đến ai khác ngoài cái tôi của mình ngoài tiền bạc và tham vọng cá nhân.
Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân cho Ngài. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải lập nhà dòng hay xây dựng những cơ sở để làm việc từ thiện như Mẹ Têrêsa, điều Ngài chờ đợi nơi mỗi người chúng ta là hãy bỏ đi tính ích kỷ xâm chiếm cuộc sống của chúng ta để mở tâm hồn mở con tim mở miệng ra để sống cho Ngài và cho tha nhân.
Mở tâm hồn để lắng nghe, suy niệm và chiêm ngắm Chúa trong Thánh Kinh đó là cách thức để Lời Chúa trở thành ánh sáng và sức mạnh cho những lựa chọn và quyết định trong cuộc sống hằng ngày.
Mở con tim ra với tha nhân giúp nhau phát huy những tương đồng, chấp nhận dị đồng, vượt qua những bất đồng. Đặc biệt là biết người đau khổ… để mỗi người có thể nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu và là người xây dựng hòa bình.
Cuối cùng chúng ta hãy biết nói về Chúa Giêsu cho người khác khi có điều kiện.
Con người thời nay thường nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ đã xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ thích chúng ta làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương.
20. Nước trời
Nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng: chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vàng thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy. Họ tôn thờ những thần tượng nhảm nhí thay cho Thiên Chúa, như một lời phát biểu đầy châm biếm: hiện giờ tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu là tôn giáo … bóng đá.
Bởi đó ngày hôm nay, sau khi hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Chúa Giêsu đã về trời để nói với chúng ta rằng: cuộc sống trần gian chỉ là như một chiếc thang dẫn chúng ta tới quê trời. Hay nói cách khác, trần gian là quán trọ, nước trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Khốn cho tôi nếu tôi quên đi chân lý ấy. Khốn cho tôi nếu tôi ra sức biến đổi trái đất thành một thiên đàng vĩnh cửu. Khốn cho tôi nếu tôi không biết dùng cuộc sống này để chuẩn bị những hành trang cần thiết cho tương lai mai hậu… Nhưng dựa vào đâu chúng ta xác quyết rằng: còn một cuộc sống khác, một thế giới khác?
Chúng ta không chụp được hình, cũng không bắt được làn sóng của thế giới ấy, không một ai đã nhìn thấy hay có kinh nghiệm, nhưng sở dĩ chúng ta tin là bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải, đã tỏ lộ cho chúng ta. Thực vậy, chúng ta không thể biết nếu Đức Kitô đã không nói đến nước trời bằng những từ ngữ khác nhau. Chúng ta không thể biết nếu thánh Phaolô đã không viết: “Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa dành cho kẻ yêu mến Ngài”. Chúng ta không thể biết nếu thánh Gioan đã không mô tả: “Ở đó sẽ không còn thời gian và không gian, buổi sáng và buổi chiều, tội lỗi và sự chết. Ở đó, Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt của chúng ta”. Chúng ta không thể biết nếu hôm nay Đức Kitô đã không về trời để củng cố niềm tin của mọi tín hữu suốt dòng thời gian, giúp họ hăng say rao giảng Tin Mừng, chấp nhận mọi khổ đau, chịu đựng mọi thử thách. Thế giới ấy sẽ to lớn gấp ngàn vạn lần thế giới chúng ta đang sống. Vậy thế giới ấy ở đâu? Có phải là lơ lửng giữa các vì sao, trên không trung bao la? Có phải là ở dưới lòng đại dương thăm thẳm? Không, tất cả đều không đúng. Vậy thế giới ấy ở đâu?
Thưa: ở bất kỳ nơi nào chúng ta được nhìn ngắm Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào có Ngài thì đó là nước trời, thì đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Trái lại, bất kỳ nơi nào không có Thiên Chúa, bất kỳ nơi nào chúng ta không được nhìn ngắm Ngài, thì đó là hỏa ngục, thì đó là chốn đọa đầy. Xưa kia thánh Tôma tông đồ nói: “Nào chúng ta cùng đi để được chết với Ngài”. Còn hôm nay, chúng ta có thể đổi lại câu nói ấy: “Nào chúng ta cùng đi để được sống với Ngài”. Phải, sống với Ngài trong một cuộc sống vĩnh cửu. Niềm tin ấy đã thiêu đốt biết bao nhiêu con tim suốt 20 thế kỷ. Chúng ta cần đến khoa học và kỹ thuật, nhưng chúng ta phải luôn nhớ: khoa học và kỹ thuật không thể giúp chúng ta tránh khỏi cái chết. Và sau cái chết sẽ còn lại một cuộc sống khác, trải dài đến muôn ngàn đời. Nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như ngày mai sẽ là thứ hai không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như mặt trời mọc vào ban sáng và lặn vào ban chiều hay không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như mùa xuân sẽ trở lại khi mùa đông qua đi hay không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. Phải, vì có thể có một ngày Chúa nhật mà sau đó không còn ngày thứ hai; có thể có mặt trời mọc vào ban sáng mà không còn ban chiều để lặn; có thể có một mùa đông mà sau đó mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng sẽ không bao giờ xảy ra rằng lời Chúa sẽ chẳng được thực hiện: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời”.
21. Chứng nhân Nước Trời – Lm. Bùi Quang Tuấn
Có rất nhiều người lầm tưởng thiên đàng là một khoảng không gian nào đó trên cao kia. Sự lầm tưởng này đã làm phát sinh nhiều hậu quả không hay: người có đạo thì bị lung lay bối rối khi có một vài khoa học gia nói rằng: Chẳng thấy Chúa đâu trên kia cả; người không có đạo thì nghĩ: Có lẽ nước trời là một thế giới nằm đâu đó trong không gian, với những sinh hoạt na ná giống như trần gian này. Thế nên đã có câu chuyện khôi hài do một cha thừa sai kể lại: Sau một tuần giảng đại phúc thật sốt sắng tại một vùng đất nọ, các cha khuyên nhủ được một ông cụ ngoại đạo gia nhập đoàn chiên Chúa. Thấy cụ bà chưa có dấu hiệu nào khả quan, nên các cha tích cực khuyên bảo: “Ông đã theo đạo rồi, bà cũng nên theo đi thôi, để sau khi chết còn lên thiên đàng gặp lại nhau nữa chứ.” Nghe thế cụ bà hốt hoảng trả lời, “Không được đâu, suốt đời ổng đã hành hạ tui đủ thứ. Mai mốt trên thiên đàng còn phải gặp lại mặt ổng nữa thì tui chết mất.”
Thiên đàng sẽ chỉ là một con số “không”, chẳng có chút gì hấp dẫn nếu như nơi đó không có hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc chính là hoa trái của yêu thương, mà yêu thương thì phát xuất từ con tim, nghĩa là từ bên trong. Bên trong chứ không phải bên ngoài hay bên trên kia.
Nước trời không ở bên ngoài hay bên trên, cũng không phải là một nơi nào đó trong không gian. Nước trời phải được hiểu như là một thực tại phía trong: trong lòng tôi, trong nơi tôi đang cư ngụ hay làm việc, và trong tầm với của gia đình.
Cho nên nói Chúa Giêsu lên trời cũng chính là nói Chúa Giêsu đi vào trong đời ta, nhà ta, lòng ta, gia đình ta. Có như thế thì lời “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” mới đong đầy ý nghĩa của nó. Chứ nếu như Ngài lên trời cao xanh hay Ngài ở nơi thế giới ngoài kia thì làm sao hiểu là Ngài đang ở cùng chúng ta được. Và vì Chúa Giêsu đã đi sâu vào đời ta, nhà ta, nên Ngài đã truyền cho chúng ta phải làm chứng cho sự hiện diện của Ngài: “Các ngươi phải là nhân chứng của Ta.”
Chứng tá cho Đức Giêsu là làm sao vẽ được dung mạo của Ngài ngay trên cuộc sống của mình, làm sao cho người khác cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ngay trong môi trường mình đang sinh hoạt, diễn tả được hình ảnh của Nước Trời đang ở giữa và ở trong chúng ta.
Có nhà hoạ sĩ kia cứ mãi mơ ước trong đời mình sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất thế giới. Nhưng anh ta không biết phải vẽ thứ gì để bức tranh sẽ có được hình ảnh, màu sắc, và nội dung sâu đậm đáng trở thành bức tranh tuyệt vời nhất trần gian.
Chàng đã tìm hỏi với một linh mục về điều gì đẹp và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: “Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời.”
Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái đang bước lên xe hoa về nhà chồng. Cô gái trả lời: “Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời.”
Cuối cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về từ tiền phương. Anh lính đã trả lời: “Hoà bình là điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái đẹp.”
Ba câu nói của ba con người– vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh thương binh trẻ– đã làm cho người hoạ sĩ phân vân: không biết phải làm thế nào để trên bức tranh của mình có thể diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu, và hoà bình.
Đang suy nghĩ anh về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt của các con. Anh cũng cảm được tình yêu trong chiếc hôn chân thành của người vợ. Niềm tin của con cái và tình yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta ấm áp và an bình lạ thường. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên trong đầu. Anh vội ngồi xuống khởi công vẽ tranh, và sau khi hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã đặt tên cho nó: “Mái Ấm Gia Đình.”
Mái ấm gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất mà người ta có thể vẽ được về Nước Trời hay Thiên đàng ngay trên thế gian này. Mái ấm gia đình cũng sẽ là lời chứng tá hùng hồn nhất cho sự hiện diện của Đức Giêsu giữa dương gian.
Bạn chưa cần phải đi đâu xa để làm chứng tá về niềm tin; bạn cũng chưa thể đi đến mút cùng trái đất để giảng về tình yêu và an bình của trời cao. Nhưng bạn có thể làm chứng tá cho Đức Giêsu ngay trong gia đình của mình.
Trước mỗi hành động, lời nói, giao tế, cư xử, hãy tự hỏi: tôi có làm mất niềm tin nơi người bạn đời hay nơi con cái của tôi không? Tôi đang xây dựng tình thương và an bình hay đang sống phản chứng trước mặt con cái và bạn đời? Tôi có đang cố gắng vẽ lên chân dung của Thiên Chúa qua việc hy sinh để kiến tạo một mái ấm gia đình không?
Những dòng chữ sau đây rất đáng cho bạn và tôi tâm niệm để ý thức hơn khi vẽ lên cho đời những “mái ấm”:
“Mái ấm là môi trường và là thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ học thế nào là điều ngay, thế nào là điều thiện, thế nào là lòng tử tế.
Đó là nơi tuổi thơ tìm về để được an ủi vỗ về mỗi khi đau khổ, bệnh tật.
Đó là nơi chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền.
Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương…
Đó là nơi mà những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, bởi vì là giá của mồ hôi nước mắt.
Đó là nơi mà tiền bạc không quí bằng tình yêu.
Và đó là nơi mà ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm hạnh phúc.
Mái ấm gia đình. Đó là nơi được Thiên Chúa chúc phúc.”
Ước gì Lễ Chúa Giêsu Lên Trời nhắc chúng ta về một Nước Trời tại thế–mái ấm gia đình–để sau Lễ Lên Trời này, bạn và tôi cũng sẽ theo bước chân của các môn đệ, lên đường làm chứng tá cho Đức Kitô, chứng tá ngay trong gia đình, chứng tá bằng việc xây dựng một mái ấm. Dù rằng cuộc đời của chứng nhân nào cũng không tránh khỏi đổ mồ hôi hay đổ máu, không tránh khỏi những hiểm nguy như chiên đi giữa sói rừng, không tránh khỏi khốn khổ như một người tôi tớ, nhưng đó là giá cần trả để có được một bức tranh tuyệt đẹp của niềm tin, yêu thương, và an bình hạnh phúc.
22. Chú giải của Noel Quesson
Cũng như đối với trình thuật về cuộc Thương khó và Phục sinh, ta nên suy niệm những trình thuật khác nhau về biến cố Thăng Thiên được ghi lại cho ta: suy niệm tận nguồn gốc đặc biệt của chúng, để khỏi lẫn lộn Người với một thứ hình tượng -người máy.
Năm nay, chúng ta có may mắn được nghe hai trình thuật diễn tả cùng một biến cố do cùng một tác giả thuật lại đó là Luca. Thật rõ ràng, nếu Luca không nỗ lực dung hòa toàn diện hai đoạn văn mô tả của ông, là vì theo ông, chính những khác biệt đó có một ý nghĩa… vượt qua tính lịch sử được hiểu theo nghĩa hẹp.
Trong Tin Mừng, Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay chiều hôm Phục sinh, và chác chắn ngay trong đêm tiếp theo ngày thứ nhất trong tuần (Lc 24, 1. 24, 13. 24, 36. 24, 50), nếu ta nhớ lại khi các môn đệ làng Em-mau vào bàn ăn, thì “trời đã muộn “ (Lc 24, 29), và các ông phải đi bộ khoảng 12 cây số trong “hai tiếng đồng hồ “ (Lc 24, 13) để trở lại Giêsusalem. Còn Đức Giêsu đã mất giờ giải thích Lề luật, các ngôn sứ và Thánh Vịnh liên hệ đến Người, với các môn đệ (Lc 24, 44) ngay chiều Phục sinh…
Trước khi dẫn họ đến Bê-tha-ni-a, ở đó Người được đem về trời (Lc 24, 50). Trái lại, trong Công vụ Tông đồ, cũng chính Luca xác định biến cố Thăng Thiên vào lúc kết thúc “bốn mươi ngày” (Cv 1,3). Ngoài những tưởng tượng có tính cách ấu trĩ mà ta cần phải từ bỏ, hiển nhiên là giữa những lần “hiện ra” khác nhau của Người, Đức Giêsu không lánh ẩn trong một khu phố tại Giêrusalem, trong một nơi bí mật, để chờ đợi “ên” trời về cùng Chúa Cha! Thực sự, Phục sinh, Thăng Thiên và Hiện xuống, là ba khuôn mặt của cùng một “mầu nhiệm” duy nhất: bởi vì vừa sống lại, thì Đức Giêsu đã bước vào vinh quang của Chúa Cha và ngự bên hữu Người “ theo kiểu nói của khải huyền. Đặc biệt, Luca nhấn mạnh đến sự kiện Đức Giêsu “rời bỏ “ những kẻ mà Ngài đã cho họ được gặp mặt… Người biến mất trước cái nhìn của họ (Lc 24, 31 – 24, 51).
Như thế, Thăng thiên vào chiều tối Phục sinh xảy ra để gắn liền cuộc sống nhân loại của Đức Giêsu với việc tôn vinh quyền năng Thiên Chúa của Người…và đó là trang cuối cùng của Tin Mùng!
Trong khi biến cố Thăng Thiên vào “ngày thứ bốn mươi” để bắt đầu cuộc sống mới của Đức Giêsu vượt qua không gian và thời gian… thì cũng là lúc khởi sự trang đầu tiên của Công vụ Tông đồ! Kết thúc thời gian của Đức Giêsu Nadarét…là bắt đầu thời kỳ của Giáo hội.
Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.
Đức Giêsu nói: “Khi Thầy còn ở với anh em”. Điều đó chứng tỏ rằng Người không còn ở trái đất như trước nữa. Thăng thiên sắp tới chỉ lặp lại những gì đã diễn ra do biến cố Phục sinh: từ đây trở đi, sự hiện diện của Chúa Phục sinh, dù có thực sự đi nữa, thì cùng ở trong một trạng thái khác… Người đã bước vào thế giới của Thiên Chúa rồi.
“Việc ứng nghiệm… và hiểu biết Kinh Thánh!”. Đức tin là phương thế duy nhất để đạt được “thế giới của ‘Thiên Chúa” mà Đức Giêsu đang hiện diện, vì giờ đây Người “không còn ở với chúng ta theo cùng một cách thức như trước nữa”. Ngay trên bước đường đi đến Em-mau, Đức Giêsu đã khiển trách hai người đồng hành với Người là những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin” (Lc 24, 25).
“Như sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy”. Chỉ khi sống lại, Người mới giải thích Kinh thánh: thực vậy, cần phải “chết đi sống lại”, để khi người ta đọc lại Kinh Thánh, mới có thể nhận ra điều đó đã được loan báo. Do đó, trong đời sống của chúng ta, có một số những biến cố đột nhiên xảy đến, soi sáng trở lại những sự việc, những lời nói mà trước đó chúng ta chưa hiểu được cách sâu xa.
“Các Thánh Vịnh”: Đức Giêsu đã thuộc lòng và hằng ngày dùng Thánh vịnh để cầu nguyện. Còn tôi thì sao? Liệu tôi có đủ độ nhớ chỉ một Thánh Vịnh để cầu nguyện, nhất là một trong những Thánh Vịnh nói về Đức Giêsu không?
Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này”.
Luca nhấn mạnh đến sự kiện: chỉ nhờ biến cố Phục sinh, các môn đệ mới hiểu được “những lời Kinh Thánh chép”. Như thế, đời sống của riêng ta, đời sống của mọi người, đời sống của những kẻ mà ta vẫn tưởng rằng mình có tương quan thân mật nhất… chỉ sáng tỏ trong ngày của Chúa. Đúng vậy, những biến cố liên hệ đến cuộc đời của Đức Giêsu, trước ngày đó, vẫn làm cho các môn đệ hoang mang, khó hiểu! “Đau khổ” của Đức Giêsu trên thập giá, có vẻ như một sự ngẫu nhiên, một tai nạn, một thất bại. Nhưng giờ đây họ mới khám phá ra, đó là sự ứng nghiệm chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha: “Cần phải ứng nghiệm không gì đã được Kinh Thánh báo trước… “. Đó không phải là một định mệnh, cũng không phải là một số mệnh nghiệt ngã và khắt khe… mà là một chương trình yêu thương! Nhưng cho tới ngày đó, họ chưa nhận ra. Giờ đây, họ sắp trở nên chứng nhân cho những điều đó. “Ngày Phục sinh ngày dài nhất của thời gian… “Ngày thứ nhất” đó sẽ kéo dài, tới vô tận! Không có ngày nào khác như thế nửa. Ta hiểu ra rằng, Luca đã muốn gom cách tiêu biểu để cả trong ngày duy nhất đó, và ngày này sẽ được kéo dài qua đời sống chứng tá của Giáo hội suốt dòng lịch sử. Hiện nay, chúng ta có luôn là “nhân chứng” cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không? Đức Giêsu, trước thái độ kịch liệt công phẫn của những người được coi là “sạch” đã nghiêng về phứa những người Samari ngoại giáo… những kẻ lạc đường, đĩ điếm, ngoại tình… những kẻ dốt nát, bị nhóm Pharisêu và thông giỏi khinh bỉ… những kẻ thông đồng với dân ngoại, những người thu thuế cộng tác với đế quốc Rôma… mọi người nghèo khổ bị xã hội ruồng bỏ, những kẻ thấp kém, bệnh tật, phong cùi. Thay vì ra hình phạt của Thiên Chúa mà lề luật đòi buộc, Đức Giêsu lại loan báo “ơn tha thứ” không giới hạn, không loại trừ một người nào khỏi ơn cứu độ phổ quát được cống hiến cho mọi người, bắt đầu từ Giêrusalem”. Đúng vậy, Thiên Chúa là Cha những người tội lỗi. Người tha thứ cho mọi người. Và noi gương Thiên Chúa, ta cũng phải tha thứ cho mọi người, ngay cả những kẻ thù của mình! Vì đã rao giảng những điều như thế nên Đức Giêsu đã bị kết án và bị đóng đinh như kẻ “phạm thượng”. Nhưng rõ ràng việc sống lại minh chứng rằng, Ngài đã có lý. Những người đại diện cho lề luật bị lên án. Đấng chịu đóng đinh luôn sống động. Mọi điều Đức Giêsu đã giảng dạy và hành động… sẽ tiếp tục và được chính Thiên Chúa minh chính hóa.. “Anh ern sẽ là chứng nhân! “.
Lạy Chúa, Chúa đòi chúng con phải thay đổi trở về thế nào đây? Thực sự, chúng con chưa làm chứng đầy đủ cho tình yêu cứu độ phổ quát!
Và đây chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.
Họ rất cần điều đó. Chúng ta cũng rất cần điều đó, cần “quyền năng” không do ta, chứng từ trời cao ban xuống! Bởi vì các môn đệ sắp phải sống và rao giảng trong một thế giới, bề ngoài chưa có gì thay đổi cả: sự dữ bạo lực, hận thù, chết chóc… độc ác, tà thuyết, sai lầm, dốt nát, áp lực đủ thứ… vẫn còn tiếp diễn.
Đấng sẽ trao ban quyền năng đó… ở đây không nêu tên… bởi vì, cũng như Chúa Cha “không ai trông thấy bao giờ.. và khác với Đức Giêsu, Đấng là khuôn mặt hữu hình của Thiên Chúa… Thần Khí không có dạng hình. Hay, đúng hơn Ngài mang bộ mặt của ta, theo cách nói của Thánh Phaolô: “Anh em là thân thể của Đức Kitô. Khi cây nến Phục sinh được tắt đi vào Lễ Thăng Thiên, thì độ là lúc các ngọn lửa được thắp sáng:để xâm chiếm mỗi người môn đệ vào Lễ Hiện Xuống.
Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được lên trời.
Đó là sự “rời khỏi”. Chỉ mình Luca sử dụng từ ngữ đây ý nghĩa đó.
So sánh với cùng một trình thuật trong Công vụ Tông chúng ta nhận thấy có nét giản dị hơn. Ở đây, không có yếu tố mô tả nào, không có “đám mây” cũng không có hai Người mặt áo trắng”. Không phải là Luca không hay biết tới ngôn ngữ khải huyền. Trong một trình thuật khác, ông sẽ sử dụng thứ ngôn ngữ này. Nhưng trong đoạn văn trên, ông muốn tương đối hóa, đơn giản hóa nó.
Tất cả đều rất bí mật, và chúng ta thử dõi theo Đức Giêsu xem sao: “Người dẫn các ông… “, “Người giơ tay chúc lành cho các ông”. “Người rời khỏi các ông để trở về với Chúa Cha trên trời”.
Chưa bao giờ Đức Giêsu đã “chúc lành” cho các tông đồ. Nhưng đây là một cảnh từ biệt. Luca có ý nối kết lại một truyền thống Kinh Thánh phong phú. Các nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh thường kết thúc đời mình bằng một cử chỉ chúc lành cho những kẻ tiếp sau: Giacóp (St 49), Môsê (Đnl 33), Đavit (1Sb 28-29). “Phép lành” của Đức Giêsu là cử chỉ cuối cùng của Người. Một cử chỉ mà Người sẽ không ngừng thể hiện, nhờ mỗi linh mục, đại diện của Người, làm lại trên chúng ta vào lúc chào tạm biệt trong Thánh lễ, bằng cách “giơ tay lên” để chúc lành cho chúng ta nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa.
Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giênlsalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Thật là nghịch lý! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn, lại vui tươi. Cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu đã trở thành nhóm người “tôn thờ” Đức Giêsu và cùng nhau “ca tụng Thiên Chúa”. Đức Giêsu ở “trên trời”. Các môn đệ của Người ở “trong Đền Thánh’. Đó chỉ là một biểu tượng… một sự đối xứng. Một phụng tự mới.
23. Chú giải của Fiches Dominicales
“ CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN”
VÀI ĐLỂM CHÚ GIẢI:
1. Đối với Đức Giêsu: hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua.
Trong sách Công Vụ Tông đồ, chúng ta đã đọc thấy biến cố Lên Trời xảy ra vào ngày thứ Bốn mươi sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin Mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh. Làm như thế Luca muốn nêu bật tính thống nhất không thể tách biệt của mầu nhiệm vượt Qua: biến cố Lên Trời biểu lộ vinh quang của Đấng Phục sinh và quyền bá chủ thần linh của Người. biến cố ấy đóng dấu ấn kết thúc cuộc đời và Tin Mừng của Đức Giêsu bằng việc tôn phong thiên quốc của Đấng Mêsia. Mâu thuẫn rõ ràng về thời gian – điều hoàn toàn tương hợp với cách hành văn của thời ấy – không nhằm mục tiêu nào khác hơn là phô bày tất cả vẻ phong phú của biến cố cứu độ này.
Sau khi tỏ mình cho các môn đệ nhận ra mình: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà” (c.39). Đức Giêsu mở tâm hồn cho họ hiểu ý nghĩa của biến cố phục sinh: “Tất cả những gì sách luật Môsê, sách các ngôn sứ và các Thánh vịnh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (c.44). Tất cả những gì các ông vừa trải qua cùng với Người, đều hiện rõ ý nghĩa dưới ánh sáng của Thánh Kinh, và chính Thánh Kinh được thực hiện hoàn hảo trong mầu nhiệm Vượt Qua: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại rồi phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.
Khi dẫn các môn đệ tới tận Bêtania, giờ đây Đức Giêsu từ biệt và chúc lành cho các ông là những người kế thừa mình theo cách các thánh tổ phụ chúc lành cho các con vào lúc lìa cõi thế..
Và đang khi Ngươi được “đem lên trời” các môn đệ “phủ phục bái lạy Người”, một cử chỉ tôn thờ chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi.
Mặc dầu chia ly hoặc phải chia ly, nhưng tất cả mọi người đều chấp nhận từ nay không còn được trông thấy, mà chỉ sống bằng lòng tin nên các môn đệ cũng “lòng đầy hoan hỉ”, “các ông trở lại Giêrusalem, ở trong Đền thờ” – nơi mọi việc đã khởi đầu khi thiên thần báo tin cho ông Dacaria – các ông “không ngớt chúc tụng Thiên Chúa”.
Roland Meynet quảng giải: “Các môn đệ xem thấy Đức Giêsu lần cuối, cuộc chia ly thế là dứt khoát rồi. Tuy nhiên, các ông không buồn sầu, ngược lại, các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Chính là vì Thầy không đi vào cõi chết như họ đã trông thấy ba ngày trước, nhưng được đưa lên trời, đến cùng Chúa Cha. Các ông bái lạy Người và không ngớt chúc tụng Thiên Chúa. Nếu Đền thờ là nơi và là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người, thì các ông biết rằng: nếu các ông luôn ở lại trước mặt Đấng tối Cao, các ông sẽ không phải xa cách Đấng vừa về với Ngài. Liệu các ông có lòng đầy hoan hỉ như thế, nếu các ông không tin chắc rằng Đức Giêsu luôn ở với các ông, mặc dầu không trông thấy? Xem như nghịch lý: cuộc chia ly đối với các ông lại trở thành dấu chỉ rằng Đức Giêsu luôn ở bên các ông. (L’Evangile selon saint Luc, Cerf cuốn 2, trg 239).
2. Đối với Hội Thánh: Khai mở một kỷ nguyên mới.
Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Glêsu, mà còn tiếp tục trong Hội Thánh. Sứ điệp Tin Mừng được hoạch định “cho muôn dân”, được rao giảng “bắt đầu từ Giêrusalem”.
“Anh em là chứng nhân của những điều đó”. Đức Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ như vậy. Và trước khi lìa bỏ các ông để “được đưa lên trời”, Người loan báo cho các ông biết rằng, các ông sẽ “nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”, quyền năng mà Cha đã hứa, để hoàn thành sứ mạng vĩ đại vượt quá sức riêng của các ông.
Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Một kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc ‘I’in Mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất. Công việc gieo trồng này sẽ bội thu, bởi vì nó bắt rễ lừ những gì vừa hoàn thành lại Giêrusalem, đó là việc “Đức Giêsu chịu khổ nạn, sống lại và sự sám hối được rao giảng nhân danh Người để được ơn tha tội”.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng hành động
(G. Bessiere: ‘Dieu si proche’ Năm C, DDB, trg 68-69).
Tận cùng lại là một khởi đầu.
Mọi sự đều xảy ra tại Giêrusalem.
Các môn đệ đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu, Người đã phục sinh. Các ông đã bắt đầu hiểu rằng sự việc phải đi tới đích điểm đó và phải được hoàn thành cách vinh quang. “Cần phải…”. Đây không phải là do định mệnh an bài. Cụm từ đó chỉ có ý nói rằng mọi biến cố tìm được ý nghĩa trong Thiên Chúa và chúng là tiếp nối của một quá khứ cao quý nhất. Một nụ hoa hé nở, một việc kỳ diệu Thiên Chúa làm ở giữa dân Người.
Đức Giêsu được “đưa lên trời”. Những lời trăn trối cuối cùng của Người là lệnh “sai đi”, và là lời loan báo cho họ một sức mạnh từ trời cao, đó là Thần Khí được ban xuống, Thần Khí mà các Ngôn sứ đã loan báo. Từ nay, những con người ấy sẽ mang trên tay và trong trái tim ơn tái sinh. Các ông sẽ làm lây lan ơn Thiên Chúa, biến đổi cả nhân loại. Đức Giêsu đi về cùng Cha Người, cốt để các ông ra đi đến tận cùng trái đất.
Cử chỉ cuối cùng của Đức Giêsu thâu tóm cả cuộc đời của Đức Giêsu trên trần gian: “Đang khi giơ tay chúc lành cho các ông, thì Người lìa các ông…”. Đức Giêsu lên trời đang khi chúc lành, hình ảnh cuối cùng đó sẽ còn mãi: bàn tay đang chúc phúc.
Còn các ông “lòng đầy hoan hỉ” và “các ông không ngớt chúc tụng Thiên Chúa trong đền thờ”. Giữa trời và đất, giữa đất với trời, lời chúc phúc được giao lưu.
Giờ đây các môn đệ Đức Giêsu – những môn đệ thời xưa và những môn đệ thời nay – cần phải loan báo Tin Mừng cho đến tận cùng thế giới và tận cùng lịch sử, bằng lời nói và bằng hành động. Phải không ngớt chúc tụng.
2. Được sai đi truyền giáo thế chân các tông đồ.
Đức Giêsu đã lên trời thế nào? Ta hãy nghe thánh Luca tường thuật thật giản dị: “Đức Giêsu lìa khỏi các môn đệ và được đưa lên trời”.
Có điều lạ là các môn đệ không biến cuộc chia ly thành một tấn bi kịch. Tác giả thuật lại rằng các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Dường như các ông đã được soi sáng cho hiểu rằng: Đức Giêsu đã hoàn thành trọn vẹn sứ mạng cứu thế của Người. Từ nay đến lượt các ông có nhiệm vụ làm chứng.
Biến cố Lên Trời cho thấy công trình cứu độ này đã hoàn thành; mọi điều Thánh Kinh loan báo đều là lời của Thiên Chúa. Tất cả đều đã được thực hiện, cả đến việc phục sinh. Từ nay, làm cho thế giới sám hối trở lại.
Biến cố Lên Trời chứng tỏ rằng Đức Giêsu chuyển giao nhiệm vụ cho các chứng nhân. Giờ đây đến lượt các môn các đệ hoạt động. Họ có nhiệm vụ làm cho kế hoạch đã được hoàn thành nơi Đức Giêsu được tỏ hiện cho mọi dân mọi nước.
Đồng thời biến cố lên Trời cũng còn la một lời hứa. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho các chứng nhân của Đức Giêsu. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho họ từ trời cao. Sức mạnh ấy củng cố trí tuệ và tâm hồn các ông, sẽ biến các ông nên can đảm.
Biến cố Lên trời là lơi chúc phúc từ trời. Một phúc lành làm cho con người cảm nghiệm năng lực của Thiên Chúa thấm nhập vào mình, cảm thấy mình được tôn trọng trong tự do và có khả năng sáng tạo để đạt kết quả.
Biến cố Lên Trời còn được tiếp nối bằng lời cầu nguyện vui tươi và tinh thần hoan hỉ. Các môn đệ không bị mồ côi chút nào. Các ông có Chúa Thánh Thần ở cùng. Các ông ở nhà của Người là Đền thờ. Các ông ca tụng những thiện hảo của Thiên Chúa. Các ông chúc tụng Người.
* CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH
1. Hiệp nhất
Một linh mục dòng Tên làm việc tại Ấn độ, đó là cha Anthony de Mello, đã kể lại một câu chuyện tưởng tượng như sau:
Ngày kia, Chúa Giêsu than phiền là Ngài chưa bao giờ được đi xem một trận bóng đá nào cả. Và thế là chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin Lành và một đội Công giáo.
Đội Công Giáo làm bàn trước. Một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời.
Vài phút sau, tới phiên đội Tin Lành làm bàn. Một đều. Lần này, Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung cả mũ lên trời.
Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài và hỏi:
– Này ông bạn, ông bạn ủng hộ đội nào vậy?
Xem chừng như còn bị kích thích bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời:
– Tôi hả? Tôi không ủng hộ đội nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi.
Người khán giả đã khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, bây giờ lại càng bực bội hơn nữa. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ:
– Gã này quả là một tên vô thần.
Trên đường về nhà, chúng tôi bàn luận với Ngài về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài:
– Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật buồn cười, Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại với kẻ thuộc tôn giáo khác.
Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói:
– Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo, mà chỉ ủng hộ con người mà thôi. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabbat. Các con nên biết là chính những người có đạo đã treo Ta trên thập giá.
Khi nói đến hiệp nhất, chúng ta thường mơ tưởng đến một sự hiệp nhất, trong đó những ai nghĩ khác chúng ta, đều phải qui phục và đứng về phía chúng ta. Thế nhưng, sự hiệp nhất theo ý muốn của Chúa thì khác. Sự hiệp nhất này không xóa bỏ những sự phong phú riêng biệt của mỗi người, hay mỗi nhóm. Giáo hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng những khác biệt chính đáng.
Chỉ có một Chúa, một phép rửa, một đức tin, nhưng có nhiều cách diẽn tả khác nhau. Để nói về Chúa Giêsu, chúng ta có tới bốn cuốn phúc âm. Vậy tại sao lại không chấp nhận có nhiều có nhiều cách sống đạo, sống Tin mừng khác nhau trong Giáo hội và trong thế giới?
Qua thư gửi tín hữu Corintô, thánh Phaolô đã dùng hình ảnh các chi thể của một thân xác để nói về sự hiệp nhất của Giáo hội trong sự đa dạng, bổ túc và liên đới với nhau. Thân xác có nhiều chi thể. Chân tay, mắt mũi, môi miệng…tất cả đều phải cộng tác chặt chẽ với nhau để làm cho thân xác được lớn mạnh, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm về sự lớn mạnh ấy.
Cũng thế, mỗi người chúng ta là một chi thể của Giáo hội. Tuy trình độ khác nhau, ý nghĩ khác nhau và việc làm khác nhau, nhưng mỗi người đều phải cộng tác với nhau để Giáo hội được phát triển, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm về sự phát triển ấy.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội, để mọi phần tử biết sống hiệp nhất trong tôn trọng lẫn nhau. Hiệp nhất nhưng không đơn điệu. Đa dạng nhưng luôn hiệp nhất và hiệp thông cùng nhau.
Lúc đó, Giáo hội được sánh ví như một vườn hoa, và mỗi thành viên là một loài hoa khác nhau, một hương thơm khác nhau.
Ôi xinh đẹp thay, phong phú thay Giáo hội Đức Kitô!!!
2. Trong cung lòng Thiên Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong lịch sử Việt Nam, tôi thích nhất tướng Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo không những có tài thao lược mà lại có đức độ hơn người. Người ta gọi ngài là Đức Thánh Trần thật xứng đáng. Thời nhà Trần có hai tướng tài: Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải. Nhưng hai gia đình lại có mối thù không đội trời chung. Cha của Trần Hưng Đạo trước khi tắt thở còn dặn Trần Hưng Đạo phải thay cha trả thù. Nhưng giặc Nguyên sang xâm lăng nước ta. Trần Hưng Đạo suy nghĩ: Giặc ngoại xâm đang đe doạ. Nếu trong nước các tướng tá không đoàn kết thì không phá nổi thế giặc đang rất mạnh. Nghĩ thế, Trần Hưng Đạo gạt bỏ mối thù nhà, đến làm hoà với Trần Quang Khải. Một hôm, Trần Hưng Đạo sang thăm Trần Quang Khải, tự tay nấu nước tắm cho Trần Quang Khải và nói: “Hôm nay được hân hạnh tắm cho Ngài quốc công”. Trần Quang Khải vui vẻ trả lời: “Hôm nay hân hạnh được tướng công tắm cho”. Từ đó hai người hoà thuận. Cùng chung vai sát cánh phục vụ đất nước. Nhờ sự đoàn kết của hai tướng tài, quân ta đã đánh thắng giặc Nguyên.
Sự đoàn kết của Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải rất phù hợp với bài Tin Mừng của Chúa Nhật 7 Phục Sinh. Hôm nay, Chúa tha thiết cầu nguyện cho cái Chúa hiệp nhất.
Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng: Có hiệp nhất mới xây dựng được cộng đoàn vững mạnh. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn”. Có đoàn kết làm việc gì cũng xong. Chia rẽ làm suy yếu cộng đoàn. Làm cho công việc trì trệ. Và có khi làm tan rã cộng đoàn.
Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng có hiệp nhất trong nội bộ mới có thể truyền giáo thành công. Hiệp nhất chính là dấu chỉ của môn đệ Chúa như Lời Chúa đã dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con thương yêu nhau”. Qua dấu chỉ hiệp nhất, người ngoài mới nhận biết Chúa. Thời sơ khai, khi nhìn thấy các tín hữu đầu tiên sống đoàn kết yêu thương, người ngoại đạo đã bảo nhau: “Kìa xem họ yêu thương nhau biết bao”. Từ đó có nhiều người xin vào đạo để được sống trong cộng đoàn hiệp nhất yêu thương.
Sau cùng, Chúa tha thiết với sự hiệp nhất, vì Chúa muốn ta được hạnh phúc. Có hiệp nhất mới có hạnh phúc. Hạnh phúc của ta là được sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi hiệp nhất với nhau đến nỗi trở thành một. Như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Thầy và Cha Thầy là một”. Cho đến độ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”.
Sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc của ta. Tuy nhiên để được thông phần vào sự sống hạnh phúc đó, ta phải hiệp nhất yêu thương nhau. Thiên Chúa là Tình Yêu, là sự Hiệp Nhất. Muốn được hoà nhập vào nguồn mạch hạnh phúc đó, ta cũng phải đoàn kết yêu thương nhau. Chỉ những ai có tinh thần hiệp nhất yêu thương mới có thể gia nhập cộng đoàn hiệp nhất yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hiệp nhất yêu thương không là một món hàng làm sẵn, nhưng là một tiến trình xây dựng dài lâu. Xây dựng bằng từ bỏ ý riêng. Xây dựng bằng nhịn nhục tha thứ. Xây dựng bằng hy sinh quên mình. Vì thế để đạt đến yêu thương đòi hỏi phải rất nhiều phấn đấu. Phấn đấu của bản thân. Phấn đấu của cả tập thể.
Nếu biết phấn đấu để hiệp nhất, ta sẽ xây dựng được cộng đoàn vững mạnh, ta sẽ truyền giáo thành công và nhất là ta sẽ được tham dự vào sự sống và hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương hiệp nhất chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Tại sao người ta luôn chia rẽ. Chia rẽ đem đến những thiệt hại nào?
2. Tại sao Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp nhất?
3. Ba Ngôi Thiên Chúa đã thể hiện sự hiệp nhất thế nào?
4. Bạn phải làm gì để xây dựng sự hiệp nhất?
3. Dấu ấn của Thiên Chúa – Achille Degeest
Người ta nói đến Phúc Âm về nhân tính, tức là ba Phúc Âm nhất lãm của các thánh chép sử Matthêu, Marcô và Luca, trong đó mô tả, với một số chi tiết nhân tính, lịch sử Đức Giêsu trong hoàn cảnh sinh hoạt, giao tế, lao động, rao giảng của Người. Chúa được trình bày như một người rất cụ thể, rất “thực”, nhưng cũng là một Đấng Mêsia. Các thư thánh Phaolô và Phúc Âm theo thánh Gioan được xem như Phúc Âm về thần trí, vì hai ông nhấn mạnh vào những viễn ảnh vĩnh cửu do thân thế Đức Giêsu mở ra cho chúng ta. Tất cả những văn bản trên hợp thành một bức hoạ song bản, một bộ Phúc Âm duy nhất. Sự suy niệm của chúng ta không được tách rời hai tấm hoạ nhân tính và thần trí, tuy nhiên chúng ta có thể theo khuynh hướng của mình hoặc chỉ dẫn của phụng vụ mà tuỳ thích đọc Phúc Âm nhất lãm hoặc Phúc Âm về thần trí. Hôm nay phụng vụ mời gọi suy niệm về một trong những đoạn cao đẹp nhất trích Phúc Âm theo thánh Gioan. Chúng ta có thể nêu ra một trong những chức năng cơ bản của Giáo Hội, đó là chức năng trung gian và sự đòi hỏi hợp nhất do chức năng ấy.
1) Giáo Hội đóng vai trò trung gian của Đức Kitô bên cạnh thế gian.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các tông đồ của Người và cho tất cả những ai sau này nhờ hoạt động tông đồ sẽ tin vào Người. Chúa biết rằng các tông đồ thật sự thuộc về thế gian, Người cầu xin cho các ông cũng thuộc về Thiên Chúa. Làm trung gian là đứng giữa, được thiện cảm của cả hai bên, đóng vai gạch nối, tiếp xúc, hoà giải, giao liên. Các tông đồ tượng trưng cho Giáo Hội. Chúa cầu xin cho Giáo Hội của Người được thật sự thuộc về thế gian, đồng thời triệt để thuộc về Thiên Chúa. Thành phần Giáo Hội là những con người, cho nên Giáo Hội tham gia vào thực thể nhân loại, một hỗn hợp bí ẩn trong đó vụng về chậm chạp xen lẫn linh hoạt cao quý. Giáo Hội cần phải tham dự vào đời sống Thiên Chúa, mà bản chất là hợp nhất trong tình yêu. Sự tham dự ấy là đối tượng lời cầu nguyện của Đức Giêsu. Chúa muốn rằng phong trào đại kết (là nét độc đáo của sự tương giao giữa Ba Ngôi Thiên Chúa) phải tiếp nối trong Giáo Hội và trở nên dấu ấn sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa nhân loại.
2) Vai trò trung gian của Giáo Hội phải mang dấu ấn đại kết.
Thiên Chúa không chia rẽ với chính Thiên Chúa. Khi những Kitô hữu chia rẽ với nhau, họ đi ngược yêu cầu chính của ơn gọi Kitô giáo. Bất hạnh lớn nhất của Giáo Hội là trong phạm vi yêu thương mà không vượt khỏi hạn chế của tâm trí và yếu hèn của tội lỗi. Ở điểm này, mỗi người chúng ta phải tự đặt những câu hỏi rất thực tiễn. Thật vậy, một Kitô hữu tất nhiên có thể nói rằng sự chia rẽ giữa những “Giáo Hội” (sự phân hoá này giống như một vết thương trong trái tim Chúa), là một vấn đề vượt quá sức mình, những dẫu sao phải ý thức về mức độ trách nhiệm của mình. Bằng cách nào? Bằng cách chiến đấu chống sự tội trong con người mình, vì chính sự tội gây chia rẽ –cầu nguyện cho phong trào đại kết- trong khung cảnh sinh hoạt của mình trở nên một cực đại kết chứ không đối đầu –và sau hết, noi gương Chúa, ăn ở hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Mỗi Kitô hữu phải lãnh trách nhiệm mang trong não trạng, trong ngôn ngữ, trong cách cư xử của mình dấu ấn của tình yêu hợp nhất và biểu hiện của Thiên Chúa.
4. Chờ mong Thần Khí
Suy Niệm 1. BÀI HỌC TỪ TÊPHANÔ
Thánh Têphanô là người môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu chết vì đức tin. Têphanô là một thanh niên quảng đại và can đảm. Ông đã làm chứng cho Đức Giêsu bằng lời nói và việc làm, và đã trả bằng cái giá của sự chết.
Đặc tính nổi bật của cái chết ấy là nó giống với cái chết của Đức Giêsu. Giống như Đức Giêsu, Têphanô vô tội. Giống như Đức Giêsu, ông bị buộc tội phạm thượng, và bị xét xử trước Thượng Hội Đồng của người Do Thái. Giống như Đức Giêsu, ông chết chỉ vì một hành vi bạo lực bên ngoài thành, (trong cách này, cả hai bị đối xử như những người bị loại bỏ trong cái chết).
Giống như Đức Giêsu, Têphanô cũng đã cầu nguyện cho những người đã giết ông: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Sau cùng, như Đức Giêsu đã trao linh hồn của Người vào tay Thiên Chúa với lời cầu nguyện. “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”. Têphanô cũng thế, khi chết, ông đã phó linh hồn ông trong tay Đức Giêsu với lời này: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Trong tất cả những sự kiện, Luca có một ý định rõ ràng. Cái chết của vị tử đạo phản chiếu cái chết của Đức Giêsu.
Sự tàn ác trong việc ném đá Têphanô khiến người ta phải suy nghĩ. Những người giết ông cởi hết quần áo của ông ra và đặt dưới chân thủ lãnh Sao lô là một người Pharisêu cuồng tín. Ông này nghĩ rằng mình đã làm sáng danh Thiên Chúa khi giết chết những người như Têphanô. Ngày nay, một số người cũng nhân danh Thiên Chúa giết người. Giết người khác để tôn vinh Thiên Chúa là một điều ghê tởm.
Sao lô như chúng ta biết không lâu sau đã hoán cải trong đức tin và trở thành một chiến sĩ vĩ đại nhất của đức tin. Chắc chắn, ông đã bị xúc động trước lòng can đảm và sự tha thứ mà Têphanô đã biểu lộ khi ông này chết. Sự hoán cải của Sao lô chứng tỏ rằng một người có thể thay đổi, và Thiên Chúa không bao giờ gạt bỏ một ai.
Nhưng Têphanô không chỉ bày tỏ những phẩm chất ấy lúc chết. Một người không trở thành một anh hùng lúc chết nếu người ấy không là một anh hùng khi sống. Thánh Têphanô đã chứng tỏ sự cam kết theo Đức Giêsu trong đời sống. Ông là một trong những Phó tế đầu tiên được các tông đồ chỉ định để phân phát lương thực cho các quả phụ. Nhưng ông cũng đã rao giảng Lời Chúa. Và chính sự rao giảng không chút sợ hãi của ông về Đức Giêsu đã làm cho các thủ lãnh đạo Do Thái nổi giận.
Têphanô đã đem lại loại làm chứng cao nhất cho Đức Kitô; ông làm chứng với cái chết của mình. Mức độ làm chứng này không được ban cho hoặc đòi buộc mọi người. Điều được đòi buộc nơi mỗi người chúng ta là phải làm chứng với đời sống của chúng ta. Đây không phải là một cách làm chứng êm ái mà là một cách thế gay go và đòi hỏi nhiều sức mạnh với lòng can đảm. Thế giới ngày nay đang kêu gọi sự làm chứng của những người không sợ trở nên một Kitô hữu chân chính.
Ngoài việc chỉ cho chúng ta phải làm chứng như thế nào, Têphanô còn chỉ cho chúng ta cách chết thế nào mà mỗi Kitô hữu phải ao ước đó là chết với lòng tha thứ mọi kẻ thù và trao phó mình cho lòng nhân hậu và thương xót của Chúa.
Suy Niệm 2. BÀI HỌC TỪ PHAOLÔ
Có một hậu cảnh, nhưng đóng vai trò quan trọng trong công việc ghê tởm ném đá Têphanô đó là Sao lô. Ông giữ áo cho những người ném đá và là một thủ lãnh trong việc bách hại các Kitô hữu. Dù vậy, cũng chính ông ít lâu sau đã được đức tin hoán cải và trở thành một chiến sĩ vĩ đại nhất của đức tin. Khó mà tin được điều đó nơi cùng một con người.
Sự kiện Phaolô tham gia vào việc giết Têphanô không có nghĩa ông là một người hoàn toàn xấu xa. Đúng hơn đó là một sự mù quáng. Thái độ cuồng tín tôn giáo đã làm ông mù quáng. Tuy nhiên, có một khía cạnh khác tốt hơn nơi ông. Rõ ràng ông là một người có cam kết cao độ, có khả năng làm việc gian khổ và chịu hy sinh to lớn.
Khi một người trải qua một cuộc hoán cải, chúng ta thường nói: “Anh/chị ấy đã trở thành một con người hoàn toàn mới”. Nhưng đó không phải là toàn bộ sự thật. Trong mỗi cuộc hoán cải, vừa có sự liên tục và sự gián đoạn. Những yếu tố tiêu cực đã bị vượt qua, và những mục tiêu mới đã được thiết lập. Tài năng và thiên hướng của một người không bị chối bỏ, càng không bị mất đi; đúng hơn, chúng được định hướng lại.
Nếu chúng ta có mặt lúc Têphanô bị giết và thấy được vai trò của Phaolô trong vụ việc, hẳn là chúng ta đã loại bỏ ông mãi mãi. Chúng ta có xu hướng làm “đông cứng” người khác trong một giai đoạn đặc biệt của đời sống họ. Chúng ta mãi mãi xét đoán họ trên nền tảng của một kinh nghiệm xấu. Chúng ta có khuynh hướng chia người ta thành hai loại: thánh nhân và tội nhân.
Nhưng con người không dễ phân loại như thế vì con người vốn phức tạp. Một số người dường như không biết gì về bản tính chia cắt của mỗi con người. Ngay khi họ khám phá một sự yếu đuối nơi một người nào, họ liền loại bỏ người ấy mãi mãi. Đối với họ, cái chai luôn có mùi của chất lỏng mà chai đã chứa đựng. Nhưng điều đó có đúng đắn và khôn ngoan không? Chúng ta có nên cấm người ta thay đổi không?
Một nền văn hoá không không ích lợi gì cho chúng ta. Thái độ đối với tội phạm là giam chúng lại và vất chìa khoá phòng giam đi. Một nền văn hoá không tin vào sự tiến bộ hoặc cứu chuộc là một nền văn hoá không hy vọng. Phải chăng đức tin chúng ta quá nhỏ bé đến nỗi chúng ta không thể chấp nhận sự thay đổi và trưởng thành? Như thể ai giết người là đến từ một hành tinh khác, và không đáng có cơ may trở thành người, để sửa chữa và chuộc lại lỗi lầm.
Chúng ta phải học tập sự nhẫn nại và khoan dung mà trước tiên là với chính mình. Chúng ta phải biết rằng chiến đấu để dẹp bỏ. Và chúng ta cũng phải khoan dung đối với người khác. Một con người sẽ được xét xử, không phải bởi chỉ một hành động hoặc bởi chỉ một giai đoạn nào đó của đời mình mà là bởi toàn bộ cuộc đời của người ấy.
Câu chuyện của Phaolô cho thấy rằng một người có thể thay đổi, và Thiên Chúa không bao giờ gạt bỏ một ai ra ngoài ơn cứu chuộc. Một người có thể gây ra một lỗi lầm lớn, nhưng sẽ được cứu chuộc bởi ân sủng của Thiên Chúa như trường hợp của Phaolô. Đó là một bài học to lớn trong đời ông. Chắc chắn, một trong những yếu tố khiên Phaolô hoán cải là gương sáng của Têphanô, Têphanô là một Kitô hữu chân chính. Phaolô đã xúc động bởi lòng can đảm và sự tha thứ mà Têphanô đã bày tỏ khi ông chết.
TIẾP CẬN KHÁC: Hội đoàn của người yếu.
Làm một tín hữu trong thế giới ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở chỗ này mà cộng đoàn xuất hiện. Chúng ta cần có cộng đoàn để nâng đỡ đức tin của chúng ta. Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các môn đệ người: “Lạy Cha, xin cho họ được nên một như chúng ta là một”. Nhưng có phải đây là một lý tưởng không thể có sao? Phải chăng người ta không cần trở nên hoàn thiện và thuộc về một cộng đoàn như thế?
Ngày xưa, một thanh niên có lý tưởng được một cộng đoàn các thầy tu lôi cuốn. Ước muốn gia nhập cộng đoàn ấy là một điều không tránh khỏi đối với anh. Và khi gia nhập, anh trở thành một tập sinh. Ban đầu anh được huấn luyện để trở thành một thành viên của một cộng đoàn những người thánh thiện. Nhưng anh không ở lại đó lâu khi anh có một sự thức tỉnh đột ngột. Anh khám phá rằng những người mà anh xem như hoàn hảo cũng có đầy những thiếu sót và bất toàn. Thật vậy, họ cũng mỏng dòn, tội lỗi và vị kỷ như anh. Anh ta hoàn toàn vỡ mộng đến nỗi anh đã rời bỏ tu viện.
Một cộng đoàn Kitô hữu không gồm những người hoàn hảo. Cộng đoàn nhỏ các Tông đồ mà Đức Giêsu cầu nguyện cho họ gồm những người nhút nhát, yếu đuối và sợ hãi. Jean Vanier nói về “Hội đoàn của những người yếu” và nói rằng sự đoàn kết lớnhơn có thể là kết quả của việc chia sẻ sự yếu đuối so với việc chia sẻ sức mạnh.
Điều này xem ra mâu thuẫn. Nhưng hãy lấy một bó sậy làm ví dụ. Từng cây sậy thì yếu ớt và dễ bị bẻ gãy. Nhưng khi cột chung thành bó, chúng hầu như không thể bẻ gẫy được. Với con người cũng thế, sức mạnh to lớn là kết quả của việc quy tụ, đặc biệt quy tụ những người yếu đuối. Cộng đoàn dường như được liên kết với sự yếu đuối và dễ bị tổn thương. Khi người ta đang vui hưởng sự thành công, người ta tìm kiếm sự thán phục, nhưng khi người ta yếu đuối, người ta tìm kiếm sự hiệp thông. Nếu người ta tìm thấy sự hiệp thông, người ta biết rằng họ được yêu thương không phải vì những thành tựu của họ, nhưng vì họ là ai. Kết quả là họ đạt được sự tín nhiệm lẫn nhau.
Và tâm hồn của một người có khả năng và mạnh mẽ luôn mở ra và tiếp xúc với lời kêu gọi yêu thương đến từ một người yếu đuối hơn mình. Khi một người nào đó nói với bạn về sự thành công và năng lực khác thường của người ấy, bạn thán phục người ấy. Nhưng khi người ấy chia sẻ những thất bại và yếu đuối của người ấy với bạn, người ấy gợi lên lòng thương cảm. Sự thương cảm dẫn đưa và tạo ra sự hiệp thông.
Sức mạnh được giấu kín trong sự yếu đuối và cộng đoàn chân thật gồm những bạn bè yếu đuối. Hội những người Nghiện rượu Vô Danh là một ví dụ cho điều này. Điều kéo các thành viên đến với nhau không phải để được chia sẻ sức mạnh mà là chia sẻ sự yếu đuối là thừa nhận một cách trung thực sự yếu đuối và tính chất dễ tổn thương mà người nào cũng có. Không ai là một mối đe doạ cho người khác, và điều này làm họ sẵn sàng chia sẻ và đón nhận lẫn nhau. Không phải là người hoàn hảo mới được chia sẻ đời sống cộng đoàn.
Các Kitô hữu tiên khởi chịu đựng lẫn nhau bằng việc cầu nguyện và cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa cũng như yêu thương phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể làm được điều tương tự. Chúng ta có thể cùng nhau tiến bước, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta phải mở rộng sang những thành viên khác của cộng đoàn cùng loại hiểu biết và thương cảm mà chính chúng ta mong ước nhận được từ họ.
“Mầu nhiệm cứu độ của tình yêu Thiên Chúa được nhìn thấy không phải trong một cộng đoàn của các anh hùng tâm linh mà của anh chị em khuyến khích nhau trong cuộc hành trình về Vương quốc của niềm hy vọng và thương xót” (Timothy Radeliffe).
5. Hiệp nhất
Mỗi người Kitô hữu chúng ta vì đã được rửa tội, nên ai cũng có trách nhiệm và trách nhiệm phải truyền giáo, nghĩa là có bổn phận phải rao giảng về Thiên Chúa, về Chúa Kitô và nước trời cho những người khác. Trong việc thực thi bổn phận ấy, sống hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt. Vậy sự hiệp nhất đó, là sự hiệp nhất nào? Sự hiệp nhất ấy có giá trị đặc biệt như thế nào trong việc truyền giáo? Và người Kitô hữu chúng ta phải sống sự hiệp nhất ra sao, để góp phần vào công việc truyền giáo của Giáo Hội? Phụng vụ lời Chúa qua bài Tin Mừng hôm nay sẽ trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó.
Trước khi từ biệt trần gian, Chúa Giêsu đã cầu nguyện một cách tha thiết với Chúa Cha cho các tông đồ và tất cả những ai nhờ lời họ mà tin vào Chúa Kitô, trong đó có chúng ta được ơn hiệp nhất: “Con không chỉ cầu xin cho những người này nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con để tất cả nên một”.
Sự hiệp nhất ở đây là một ân huệ của Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin với Cha Ngài cho chúng ta. Do đó hiệp nhất ở đây không thể là giả tạo như sự hiệp nhất của hai cây gậy buộc lại với nhau thành một; cũng không như hai người bạn đi đường cùng nhau, cùng mục đích, cùng mối lợi, nhưng là nhắm lợi ích riêng của mình; càng không phải là sự hiệp nhất rẻ tiền: cố nhịn nói, cố tránh va chạm để người ngoài nhìn vào không biết chúng ta đang chia rẽ. Trái lại, đây là sự hiệp nhất trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Sự hiệp nhất đó phải được như là sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa Ba Ngôi: “Như Cha ở trong Con, như Con ở trong Cha”.
Như vậy, sự hiệp nhất ở đây không phải là bất cứ sự hiệp nhất nào, mà là sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Cha trong Thánh Thần. Căn bản của sự hiệp nhất này là tình yêu phát xuất từ Cha và chính trong sự hiệp nhất này là sức mạnh có tính thuyết phục thế gian tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và nhận ra tình yêu thương của Chúa Cha đối với nhân loại.
Chắc hẳn, Chúa Giêsu biết rất rõ sự hiệp nhất mà Ngài mong ước thiết tha cho chúng ta (như đã trình bày ở trên) có một sức mạnh truyền giáo rất đặc biệt. Sở dĩ như vậy, vì Thiên Chúa và nước trời là những mầu nhiệm, những thực tại vô hình không dễ gì tin, bởi mắt phàm không thấy. Trái lại, khi nhìn thấy đời sống yêu thương hiệp nhất của các tín hữu, người ta sẽ nhận ra có sự hiện diện của Thiên Chúa và nước trời.
Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã diễn tả sâu sắc về giá trị tông đồ của sự hiệp nhất, ngài nói: “Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng, sự hiệp nhất giữa chúng ta không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của Chúa Kitô”.
Quả vậy, có hiệp nhất với nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là những con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp, nhưng là những con người có đức tin trưởng thành, có khả năng đối thoại, gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm kiếm chân lý cách chân thành vô vị lợi. Như vậy sự hiệp nhất minh chứng chúng ta là môn đệ Đức Kitô, là những con người có đức tin vững mạnh và đó là lý do hấp dẫn người ngoài để họ dễ tin vào lời chứng của chúng ta. Hơn nữa, một sự hiệp nhất đến từ Thiên Chúa liên kết chúng ta lại với nhau là biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa và nước trời ở giữa thế gian, như lời Chúa Giêsu thân thưa cùng Chúa Cha:”Xin cho họ nên một, như vậy, thế gian có thể nhận biết rằng chính Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con”.
Sống hiệp nhất nên một cách thân mật như “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” có một sức mạnh rất đặc biệt cho việc loan báo Tin Mừng. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể hiệp nhất nên một cách thân mật như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha được? Quả thật, một sự hiệp nhất như thế nằm ngoài tầm tay của chúng ta và sự hiệp nhất này chỉ có thể thực hiện nơi chúng ta nếu chính Thiên Chúa thực hiện trong ta. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một như Chúng Ta là một…” Vinh quang ở đây, chính là sự sống của Thiên Chúa. Việc chúng ta hiệp nhất vào chính sự sống của Thiên Chúa là cơ sở cho việc chúng ta hiệp nhất với nhau, cho nên phương thế hay nhất để thực hiện sự hiệp nhất giữa chúng ta là mức độ chúng ta thông hiệp vào vinh quang của Chúa Giêsu, vào cuộc sống Thần Linh của Ngài, nhờ việc kết hiệp với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, qua rước lễ, viếng Chúa Giêsu Thánh Thể; nhờ việc lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống; nhờ việc chân thành cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong Giáo Hội, giữa các Kitô hữu với nhau và cho một thế giới tốt đẹp hơn. Một khi hiệp nhất với Chúa Giêsu như thế, chúng ta sẽ dễ dàng hiệp nhất và yêu thương nhau, tránh được mọi hận thù, chia rẽ, ghét ghen… Có như thế, chúng ta mới thực sự là dấu hiệu để người ngoại nhận ra Thiên Chúa là tình yêu và nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế được Chúa Cha sai đến để thực hiện chương trình yêu thương của Người, và lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng sống hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt trong việc truyền giáo.
Ước chi phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức được sống hiệp nhất có một sức mạnh truyền giáo; ý thức rằng Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện cho chúng ta được hiệp nhất với nhau như Ngài trong Cha và Cha trong Ngài; ý thức rằng Chúa Giêsu đang cần đến sự cộng tác của chúng ta với ơn Chúa để làm triển nở sự hiệp nhất trong cộng đoàn xứ đạo, gia đình của chúng ta. Nhờ đó chúng ta sống gắn bó với Chúa Giêsu hơn qua việc năng dâng lễ, hiệp lễ, lãnh nhận các bí tích, lắng nghe lời Chúa, cầu nguyện cho sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình cũng như trong xứ đạo của chúng ta. Hơn nữa, có Chúa Giêsu là giềng mối sự hiệp nhất trong chúng ta, chúng ta sẽ dễ dàng sống hiệp nhất yêu thương đối với anh chị em của chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu tiếp tục tác tạo sự hiệp nhất nơi chúng ta.
6. Nên một
Khi cầu nguyện cho các môn đệ tương lai điều quan tâm chính của Người là sự hiệp nhất giữa họ. Người cầu xin Chúa Cha: “Để họ được nên một như chúng ta là một”.
Sự hiệp nhất không giống như sự đồng phục. Đức Giêsu chọn lựa các môn đệ với đủ loại tính khí, phân cách, phong cách và tầng lớp xã hội để gợi ý rằng Người đã tìm trong tính đa dạng một sức sống lành mạnh.
Sự nên một không thể được thực hiện trong một cộng đoàn từ chối sự khác nhau. Sự nên một được hoàn thành khi mọi thành viên khác nhau và góp phần bằng những ơn gọi khác nhau, nhưng tất cả đều được hiệp nhất xung quanh một mục đích chung bởi sự yêu thương nhau. Mỗi người chúng ta phải được thanh luyện khỏi nhu cầu chứng tỏ mình là tốt nhất. Chúng ta phải mở rộng lòng mình với những người khác và vui mừng tiếp đón những ơn gọi của họ.
Chúng ta được kêu gọi từ nhiều tình trạng khác nhau để tạo thành một thân thể trong Đức Kitô. Bằng sự vượt lên trên những sự khác nhau đó, chúng ta trở thành nhân chứng của Thiên Chúa, Đấng cho ánh sáng chiếu soi trên những đường lối khác nhau.
Người ta kể lại một câu chuyện rằng ngày thứ ba của công cuộc sáng thế, sau khi đã tạo ra cây cối, Thiên Chúa đụng phải một vấn đề bất ngờ. Những cây tuyết tùng ở xứ Libăng dường như quá cao đến nỗi chúng bị cám dỗ sinh ra lòng kiêu ngạo. Và thế là Thiên Chúa quyết định tạo ra chất sắt.
Các cây ấy lập tức biết rằng đã có mối đe dọa và bắt đầu khóc, vừa khóc chúng vừa nói: “Oi khổ thân chúng tôi, một ngày nào đó, chúng tôi sẽ bị lưỡi rìu đốn ngã”. Nhưng Thiên Chúa đã trấn an chúng; Người nói với chúng: “Nếu không có cái cán, cây rìu chỉ là một cục sắt. Mà cái cán rìu lại làm bằng gỗ, các ngươi hãy cố sống trong bình an và không phản bội nhau. Hãy sống hiệp nhất và cái rìu sẽ không có quyền lực gì để chống lại các ngươi”.
Đức Giêsu biết rằng sự nên một hay hiệp nhất là sự sống của cộng đoàn non trẻ (các môn đệ). Nhưng phải có sự nên một trên nền tảng yêu thương, và là kết quả của lòng trung thành với giới răn yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Cộng đoàn là một thách đố lớn. Tình huynh đệ còn đi xa hơn sự tha thứ cho nhau. Nó bao hàm sự liên đới, chia sẻ, tùy thuộc, nhân hậu và niềm vui mừng trong hạnh phúc của những người khác. Tính vị kỷ là một tai họa đối với một cộng đoàn: mỗi người yêu cầu cộng đoàn quan tâm đến mình, nhưng không một ai muốn quan tâm đến những người khác.
Đáng buồn là qua bao thời đại, sự hiệp nhất mà Đức Giêsu mong ước cho Giáo Hội của Người đã bị rạn nứt nhiều lần. Kết quả là ngày nay chúng ta không phải chỉ có một mà có nhiều Giáo Hội Kitô giáo. Những chia rẽ giữa các Kitô hữu là một cớ gây vấp ngã cho người ngoại giáo. Tuy nhiên, điều thật sự gây vấp ngã không phải là có nhiều tín ngưỡng và sự hành đạo khác nhau của các Kitô hữu thuộc các giáo phái khác nhau, nhưng là giữa họ, có sự thù địch nhau. Chúng ta thấy sự thù địch được đẩy nén cực độ trong bài đọc sách Công vụ Tông đồ liên quan đến việc giết chết Têphanô. Ở đây chúng ta có những người trung kiên của một tôn giáo (Do thái giáo) giết những người của một tôn giáo khác nhau. Chúng ta không nên ngồi chờ điều đó. Nhưng phải chuẩn bị sẵn sàng cho sự qui tụ sắp tới của mọi Kitô hữu.
7. Người yếu
Làm một tín hữu trong thế giới ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở chỗ này mà cộng đoàn xuất hiện. Chúng ta cần có cộng đoàn để nâng đỡ đức tin của chúng ta. Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các môn đệ Người: “Lạy Cha, xin cho họ được nên một như chúng ta là một”. Nhưng có phải đây là một lý tưởng không thể có sao? Phải chăng người ta không cần trở nên hoàn thiện và thuộc về một cộng đoàn như thế?
Ngày xưa, một thanh niên có lý tưởng được một cộng đoàn các thầy tu lôi cuốn. Ước muốn gia nhập cộng đoàn ấy là một điều không tránh khỏi đối với anh. Và khi gia nhập, anh trở thành một tập sinh. Ban đầu anh được huấn luyện để trở thành một thành viên của một cộng đoàn những người thánh thiện. Nhưng anh không ở lại đó lâu khi anh có một sự thức tỉnh đột ngột. Anh khám phá rằng những người mà anh xem như hoàn hảo cũng có đầy những thiếu sót và bất toàn. Thật vậy, họ cũng mỏng giòn, tội lỗi và vị kỷ như anh. Anh ta hoàn toàn vỡ mộng đến nỗi anh đã rời bỏ tu viện.
Một cộng đoàn Kitô hữu không gồm những người hoàn hảo. Cộng đoàn nhỏ các tông đồ mà Đức Giêsu cầu nguyện cho họ gồm những người nhút nhát, yếu đuối và sợ hãi. Jean Vanier nói về “Hội đoàn của những người yếu” và nói rằng sự đoàn kết lớn hơn có thể là kết quả của việc chia sẻ sự yếu đuối so với việc chia sẻ sức mạnh.
Điều này xem ra mâu thuẫn. Nhưng hãy lấy một bó đũa làm ví dụ. Từng chiếc đũa thì yếu ớt và dễ bị bẻ gãy. Nhưng khi cột chung thành bó, chúng hầu như không thể bẻ gãy được. Với con người cũng thế, sức mạnh to lớn là kết quả của việc qui tụ, đặc biệt qui tụ những người yếu đuối. Cộng đoàn dường như được liên kết với sự yếu đuối và dễ bị tổn thương. Khi người ta đang vui hưởng sự thành công, người ta tìm kiếm sự thán phục, nhưng khi người ta yếu đuối, người ta tìm kiếm sự hiệp thông. Nếu người ta tìm thấy sự hiệp thông, người ta biết rằng họ được yêu thương không phải vì những thành tựu của họ, nhưng vì họ là ai. Kết quả là họ đạt được sự tín nhiệm lẫn nhau.
Và tâm hồn của một người có khả năng và mạnh mẽ luôn mở ra và tiếp xúc với lời kêu gọi yêu thương đến từ một người yếu đuối hơn mình. Khi một người nào đó nói với bạn về sự thành công và năng lực khác thường của người ấy, bạn thán phục người ấy. Nhưng khi người ấy chia sẻ những thất bại và yếu đuối của người ấy với bạn, người ấy gợi lên lòng thương cảm. Sự thương cảm dẫn đưa và tạo ra sự hiệp thông.
Sức mạnh được giấu kín trong sự yếu đuối và cộng đoàn chân thật gồm những bạn bè yếu đuối. Hội những người nghiện rượu vô danh là một ví dụ cho điều này. Điều kéo các thành viên đến với nhau là không để được chia sẻ sức mạnh mà là chia sẻ sự yếu đuối là thừa nhận một cách trung thực sự yếu đuối và tính chất dễ tổn thương mà người nào cũng có. Không ai là một mối đe dọa cho người khác, và điều này làm họ sẵn sàng chia sẻ và đón nhận lẫn nhau. Không phải là người hoàn hảo mới được chia sẻ đời sống cộng đoàn.
Các Kitô hữu tiên khởi chịu đựng lẫn nhau bằng việc cầu nguyện và cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa cũng như yêu thương phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể làm được điều tương tự. Chúng ta có thể cùng nhau tiến bước, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta phải mở rộng sang những thành viên khác của cộng đoàn cùng loại hiểu biết và thương cảm mà chính chúng ta mong ước nhận được từ họ.
“Mầu nhiệm cứu độ của tình yêu Thiên Chúa được nhìn thấy “không phải trong một cộng đoàn của các anh hùng tâm linh mà của anh chị em khuyến khích nhau trong cuộc hành trình về vương quốc của niềm hy vọng và thương xót” (Timothy Radcliffe)
8. Cái giá phải trả cho cuộc sống
Kitô hữu chúng ta thường bị tố giác là những người bị ám ảnh với sự sống đời sau mà lãng quên mất cuộc sống hiện tại. Nhưng Kitô giáo không phải là một tôn giáo nghi kỵ cuộc sống cho dù là bên ngoài có vẻ đối ngược với cách sống của một số người. Chúa Giêsu đã không đến trần gian để cướp đi niềm vui của cuộc sống. Chúa Giêsu đến mang cho nhân loại Tin Mừng: cuộc sống này là món quà Thiên Chúa ban cho chúng ta bởi vì Ngài yêu thương chúng ta và lo lắng cho chúng ta! Có lẽ bởi vì chúng ta còn chưa hiểu rõ được sứ điệp Tin Mừng mà Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta tại thế gian cho nên chúng ta mới lo sợ đến sự sống đời sau. Thật ra sự sống đó đã bắt đầu ngay từ ở đời này. Sự sống đó đến với chúng ta, và nếu chúng ta còn không biết sống ở đời này ngay bây giờ thì việc lo sợ đến sự sống đời sau thật là vô ích.
Có một câu truyện kể về một chàng thanh niên trẻ xích lại gần, ôm người bạn gái và nói, “Em ơi, anh rất yêu em, anh rất cần em, anh không thể nào sống nếu thiếu em.” Người con gái nhẹ nhàng đẩy người bạn ra và bảo, “Làm ơn đi anh Gioan, đừng nói như vậy. Đừng có làm như thiệt vậy.” Và anh Gioan liền hỏi lại, “Như thiệt vậy?” Thật ra đó là cách thức mà nhiều người chúng ta thường nói và bày tỏ trong cuộc sống mà trong tâm tư không có ý gì cả. Chúng ta chỉ nói chơi thôi.
Chúa Giêsu không bao giờ chơi chữ với chúng ta như thế. Chúng ta còn nhớ câu truyện người thanh niên giàu có đi tìm sự an ủi cho sự trống rỗng trong tâm hồn của anh. Anh có tất cả những gì cần thiết trong cuộc sống, thế nhưng anh vẫn cảm thấy một sự trống rỗng. Anh đã tuân giữ Thập Giới từ khi còn bé. Đối với tiêu chuẩn của cuộc sống, anh là người gương mẫu và lý tưởng, thế nhưng anh lại là một người xa lạ đối với cuộc sống của chính mình. “Lạy Thầy nhân lành, con phải làm gì để tìm kiếm được sự sống đời đời?” (Lc 18:18). Chúa Giêsu đã trả lời với anh một cách thành thật và đứng đắn rằng anh cần phải làm thêm một điều nữa là hãy về bán hết của cải và bố thí cho người nghèo khổ và đến theo Ngài (Lc 18:22).
Có một câu truyện khôi hài như vầy. Một người đàn ông nọ có một sáng kiến muốn đi trên một sợi dây thừng bắt ngang qua Thác Niagara. Sáng kiến này đã được nhiều người thực hành, thế nhưng người đàn ông này còn táo bạo hơn nữa là ông định tâm sẽ vừa đi trên dây vừa đẩy một chiếc xe cút-kít và chở một người ở trên đó. Ông đã không ngừng luyện tập đi trên dây và đẩy chiếc xe cút-kít chở đầy đá. Một ngày nọ, có một người đến nói với ông rằng anh rất tin tưởng ông ta có thể làm được chuyện đó. Người đi trên dây hỏi lại, “Có phải anh rất tin tưởng tôi có thể làm được chuyện này không?” Người kia liền trả lời, “Tôi tin như thế!” Người đi trên dây liền bảo anh ta, “Vậy thì anh hãy lên ngồi trên chiếc xe cút-kít này để tôi đẩy anh đi trên dây.”
Đó là điều mà Chúa Giêsu đã làm đối với những ai muốn đi theo Ngài. Ngài hỏi họ có tin vào Ngài không, nếu có thì, “Hãy ngồi vào chiếc xe cút-kít! Hãy chứng minh! Hãy từ bỏ những chiếc thuyền đánh cá! Hãy từ bỏ gia đình! Hãy theo ta!” Việc này thường được gọi là vâng lời một cách tuyệt đối mà không ngoại lệ. Đó là điều làm cho nhiều người phải điêu đứng ngập ngừng khi phải đối diện. Cái lý do tại sao là bởi vì chúng ta coi thường sự việc, chúng ta lơ là không nghiêm túc. Chúng ta không hoàn toàn tín thác vào Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta phải trả cái giá để đạt được sự viên mãn của mình.
Nếu các bạn là những người đang đi tìm những câu trả lời cho những thắc mắc của cuộc sống thì bạn nhớ hai điều: hãy nghiêm túc và hãy chuẩn bị để trả cái giá mà nó đòi hỏi. Các bạn phải sẵn sàng như Thánh Stêphanô trong thời Giáo Hội tiên khởi. Bởi vì vâng lời Chúa Kitô một cách tuyệt đối, ngài đã phải chịu sỉ nhục và ném đá do những người chống đối. Tại chỗ bị ném đá, thánh nhân đã quì gối và cầu rằng, “Lạy Chúa, xin nhận lấy linh hồn con… Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:59). Những lời cuối cùng này chứng tỏ rằng Thánh Stêphanô đã nắm chắc được điều ông tin và hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, và ông sẽ đi đâu. Thánh Stêphanô không phải là người xa lạ với sự sống đời sau, và cũng không phải là người xa lạ với sự sống đời này. Thánh Stêphênô đã không do dự để trả lời lời kêu gọi của Chúa Giêsu để bước vào chiếc xe cút-kít bởi vì thánh nhân đã quá quen với sự việc đó nhiều lần trước khi ngài trả lời để đi theo cuộc sống làm chứng nhân. Thánh nhân đã tin vào lời hứa của Đức Kitô rằng khi cuộc sống này kết thúc thì phần thưởng sẽ là hân hoan và vui mừng. Nhiều người trong chúng ta, có lẽ tất cả chúng ta, sẽ được hỏi để mà trả cái giá dưới một hình thức nào đó.
Chúng ta đi tham dự Thánh Lễ và chẳng có chút gì biến đổi cả. Chúng ta cần phải làm gì để chúng ta được biến đổi. Chúng ta có tin rằng Chúa Giêsu có thể đem tình yêu của Thiên Chúa vào trong cuộc sống của chúng ta, canh tân cuộc sống của chúng ta! Vậy, chúng ta hãy nhảy vô chiếc xe cút-kít, hãy đặt sự sống của chúng ta trong tay Ngài, và hãy hoàn toàn tín thác vào Ngài.
9. Xin cho chúng nên một – Lm. Vũ Thái Hoà
«Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.» Sự mong ước của Chúa Giêsu đối với Giáo Hội của Ngài, đó là sự hiệp nhất. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trên đây cho chúng ta thấy sự sáng suốt tuyệt vời của Ngài. Ngài đã biết trước sẽ có hàng triệu người tin vào Ngài, cũng biết trước rằng thảm họa lớn của các môn đệ Ngài, chính là sự chia rẽ. Phải, sự chia rẽ là một đề tài thời sự đau thương. Trên thế giới hôm nay, có biết bao sự đối nghịch, chia rẽ và hận thù! Giáo Hội cũng không tránh khỏi những đau thương đó, ngay cả các cộng đoàn công giáo Việt Nam…
Một linh mục Ấn Độ tên là Anthony De Mello đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Chúa Giêsu than phiền với chúng tôi là Ngài chưa bao giờ được đi xem một trận bóng đá nào cả. Chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin lành và một đội Công giáo. Đội Công giáo làm bàn trước, một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, tới phiên đội Tin lành làm bàn. Lần này, Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và cũng tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài rồi hỏi: «Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ bên nào vậy?». Xem chừng như vẫn còn bị khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời: «Tôi hả? tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi». Người khán giả đã khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, bây giờ lại càng bực bội hơn. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: «Hắn này là một tên vô thần!»
Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn luận với Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài: «Thưa Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía của họ và nghịch lại với những người thuộc tôn giáo khác». Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói: «Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo mà chỉ ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabbat. Các con nên biết là chính những người có tôn giáo đã treo Ta trên thập giá.»
Khi nói đến hiệp nhất, chúng ta thường mơ một sự hiệp nhất mà trong đó những ai nghĩ khác chúng ta, phải về phía chúng ta! Sự hiệp nhất theo ý muốn của Chúa không phải ở sự xóa bỏ những sự phong phú riêng biệt của mỗi người hoặc của mỗi nhóm. Giáo Hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng những sự khác biệt chính đáng. Chỉ có một Chúa, một phép rửa tội, một đức tin, nhưng có nhiều cách khác nhau để diễn tả đức tin. Để nói về một Chúa Giêsu, chúng ta có tới bốn cuốn Phúc Âm, tại sao chúng ta không chấp nhận có nhiều cách diễn tả, có nhiều cách sống Tin Mừng, sống đạo khác nhau trong Giáo Hội và trong thế giới?
Trong lá thư gửi tín hữu Côrintô (1 Cr 12, 12-30), thánh Phaolô dùng hình ảnh các chi thể của một thân xác để nói về sự hiệp nhất của Giáo Hội trong sự đa dạng, trong sự bổ túc và liên đới của các phần tử. Thân xác có nhiều chi thể khác nhau. Chân, tay, mắt, mũi, tai và các chi thể khác đều phải cộng tác chặt chẽ với nhau để làm cho thân xác nên mạnh mẽ, và cùng liên đới chịu trách nhiệm với nhau về sự lớn mạnh của thân xác. Cũng thế, mỗi người chúng ta là một chi thể của Giáo Hội. Tuy trình độ khác nhau, nhân sinh quan khác nhau, mỗi người đều phải cộng tác với nhau để Giáo Hội được phát triển và liên đới chịu trách nhiệm về sự phát triển ấy.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo Hội chúng ta, cho mọi phần tử biết sống hiệp nhất trong sự tôn trọng lẫn nhau. Hiệp nhất nhưng không đơn điệu, đa dạng nhưng trong hiệp nhất và hiệp thông. Lúc đó, Giáo Hội được ví như một vườn hoa lớn, và mỗi thành viên là một loài hoa khác nhau, một hương thơm khác nhau. Ôi đẹp thay, phong phú thay, Giáo Hội của Chúa Kitô!
10. Chú giải của Noel Quesson
Hôm nay, chúng ta đọc phần cuối “Lời cầu nguyện cho linh mục” của Đức Giêsu.
Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện rằng
Tôi thử mường tượng ra quang cảnh trên. Lúc đó là vào chiều thứ năm, Đức Giêsu sắp sửa ra đi chịu chết. Sau khi đã bầy tỏ những tâm sự cuối cùng khá lâu vó các bạn hữu mà Ngài sắp rời bỏ, Đức Giêsu bắt đầu ngỏ lời với Chúa Cha: Ngài cầu nguyện. Đây là lời cầu nguyện dài nhất của Đức Giêsu trong các Tin Mừng.
Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con.
Một lần nữa, chúng ta được mời gọi tìm hiểu xem Đức Giêsu đã ý thức thế nào về Người. Người khoảng ba mươi tuổi sắp phải chết, chỉ dùng ba năm để đề xuất một công trình cần thực hiện. Một trong số mười hai môn đệ mà Người đã tuyển chọn, vừa mới ra ngoài để phản nộp Người Đức Giêsu còn biết rằng, mười một ông khác cũng sẽ bỏ Người. Trong tình huống đó, Đức Giêsu “cầu nguyện” cho những kẻ nhờ lời họ mà tin vào Người trong tương lai. Vâng, Đức Giêsu đã nhìn thấy trước toàn bộ công việc phát triển rộng lớn của công trình Người thực hiện. Người nhìn thấy từng đoàn lũ người sẽ tin vào Người. Người đã thấy trước Giáo hội.
Đức Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người, trong những thời đại tiếp sau, sẽ tin vào Người: Người cầu nguyện cho tôi, ngay chiều hôm đó.
Đó là lời cầu nguyện được thực hiện vào một buổi chiều, lời cầu nguyện của một con người cụ thể. Thánh Phaolô quả quyết, lời cầu nguyện đó sẽ không khi nào chấm dứt, bởi vì giờ đây Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu nguyện giúp cho chúng ta (Rm 8,34). “Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ”. (Dt 7,25).
Vậy nội dung của lời cầu nguyện đó là gì? Đức Giêsu có cầu xin Chúa Cha cho các tín hữu không?
Xin cho tất cả nên một…
Lời nguyện chúc cơ bản mà Đức Giêsu muốn dành cho Giáo hội của Người: đó là sự Hiệp nhất!
Một lần nữa, qua lời cầu nguyện này, Đức Giêsu xuất hiện trước chúng ta như một người sáng suốt phi thường. Người đã cảm thấy trước biết bao đám đông dân chúng, từng tỷ con người sẽ tin vào Người (điều đó đã trở nên hiện thực)! Người dũng cảm thấy rằng, thảm kịch to lớn của các tín hữu là sự “chia rẽ” (điều đó cúng đã xảy ra)!. Tư tưởng tôn giáo đúng nghĩa, vẫn thường mang trong mình nguy cơ ly giáo, vì những điều tuyệt đối mà nó chuyển tải, vì những thái độ cao thượng mà nó gợi lên: đáng buồn thay, các bè phái lại rất gần với sở thích kiếm tìm chân lý. Các ý thức hệ hiện đại, với đặc tính thường quá triệt để của chúng, luôn dẫn đến sự cuồng tín, và do đó đến những ly cách và sai lầm.
Vâng, sự hiệp nhất là một trong những đề tài bi thiết hiện đại. Biết bao sự hiệp nhất đã bị gẫy đổ, biết bao thái độ chống đối, biết bao mối hận thù trong thế giới, cũng như trong Giáo hội.
Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha
Đó không chỉ là một sự thông cảm bình thường giữa hai người bạn. Còn có một điều gì khác hơn là một sự khoan nhượng chân thành với nhau. Đó không chỉ là “sự đồng hiện hữu,bình ổn” của các khối, mà trên thực tế họ tìm hết cách để kịch hệt tiêu diệt lẫn nhau.
Mô hình tiêu biểu được Đức Giêsu đưa ra cho các Kitô hữu, đó là Chúa Ba Ngôi. Dù là nhiều nhưng chỉ làm nên một. Thực sự, chúng ta luôn nghĩ đến một thứ hiệp nhất quá dễ dãi, đó là những người không suy tư như chúng ta; con phải liên kết lại với chúng ta! Khi hai người chia rẽ nhau vì sở thích, chọn lựa, tập quán, thì không phải là sự hiệp nhất đích thực. Khi đơn thuần, ta triệt hạ một trong hai người tương quan: lúc đó, sự hiệp nhất chỉ là loại bỏ một trong hai; một thứ đồng hóa mà thôi! Trái lại trong Thiên Chúa, các ngôi vị hoàn toàn tách biệt nhau, nhưng lại tôn trọng nhau, luôn sống trong mối hiệp thông trọn vẹn mà không lẫn lộn; đó là sự hiệp nhất của nhiều ngôi vị. Theo Thiên Chúa, sự hiệp nhất không ở chỗ chỉ nhằm tẩy xóa những tiềm năng khác nhau của mỗi nhóm người, mỗi cá nhân trong một thứ phối hợp mà không để ý đến nét nổi bật và thi vị. Giáo hội cần phải xây dựng một sự hiệp nhất trong thái độ tôn trọng những khác biệt chính đáng.
Tại sao mọi chủng tộc, mọi nền văn hóa lại phải làm mất đi nét độc sáng, đã được Thiên Chúa trao ban cho họ như một yếu tố của sự hòa hợp phổ quát? Tại sao một kiểu đạo đức lại có thể buộc những người cầu nguyện cách khác phải tuân theo? Cần phải chân thành thú nhận rằng, Giáo hội Công giáo từ lâu vẫn lẫn lộn “sự hiệp nhất” với “Âu Châu” hay “La tinh” của mình. Những nhà thần học có tầm cỡ của các xứ truyền giáo thường nghĩ rằng, những mầu nhiệm quan trọng của Kitô giáo (Chúa Ba Ngôi, Nhập thể, Cứu chuộc …) chỉ thực sự bày tỏ tất cả sự phong phú thần học, khi chúng được chuyển dịch lại nhờ các bộ óc của những người An Độ, những người Châu Phi, chịu ảnh hưởng của Phật giáo hay thuyết Vật Linh; cũng như các mầu nhiệm đó đã bắt đầu bày tỏ ánh sáng đầu tiên qua tư tưởng Hi Lạp của Platon và Aristote.
Nhưng chúng ta sẵn sàng sống “sự hiệp nhất” thâm sâu đó giữa những “người khác biệt” không?
Ngày nay, mọi Người đều nói đến “tính đa dạng” và hiệp nhất”. Thực sự, chúng ta có hướng tới một thái độ chân thành lắng nghe những khác biệt, một trao đổi những khả năng riêng tư một chia sẻ văn hóa, “những hệ kín”, một sự tôn trọng kẻ khác không?
Để họ được hoàn toàn nên một, như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta hãy “yêu thương như Người”. Ở đây, Người nói hãy trở nên “một” như Ba Ngôi Thiên Chúa! Nhưng trong câu này, Người còn thêm rằng, chính sự giống nhau đó làm nên Giáo hội mang tính “thừa sai”. Công đồng Vatican II, Công đồng đầu tiên trong lịch sử đề cập tín điều về Giáo hội một cách trực diện, trong Hiến chế tín lý quan trọng “Lumen Gentium” (Anh sáng muôn dân), đã đặt trọn vẹn suy tư’của mình trên một kiểu nói của thánh Xy-pri-anô, giám mục thành Các-ta-gô vào khoảng năm 250: “Giáo hội là một dân tộc rút ra sự hiệp nhất cho mình, từ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần”. Giáo hội là sự mở rộng cho nhân loại, kiểu tương quan liên vị hoạt động trong Thiên Chúa Giáo hội là “bí tích hữu hình” của Thiên Chúa, là “dấu chỉ” của Người: “Giáo hội, ở trong Đức Kitô, như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện để kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, và để hiệp nhất với toàn thể nhân loại” (LG số 1).
Thỉnh thoảng ta tiếp tục tìm kiếm xem đâu là những kỹ thuật những cách thức làm tông đồ tốt hơn, những công trình cần phải thiết lập hay nuôi dưỡng, để “Phúc âm hóa” thế giới, để thế gian tin; để trao lại đức tin cho người trẻ, những người trưởng thành đã đánh mất nó. Từ lâu, Đức Giêsu đã trả lời, đã đưa ra quan điểm của Người: chính sự “hiệp nhất” có sức loan báo Tin Mừng! “Hãy nhìn xem, họ yêu thương biết bao”, hẳn là người ta có thể nói về các Kitô hữu như thế, về những con người sống đức tin thế nào để đức tin có sức hấp dẫn kẻ khác. Lạy Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, xin làm cho chúng con nên một như Chúa.
“Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một, như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con”.
Đó là lời cầu nguyện của Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha, dành cho chúng ta. Đó là cách Đức Giêsu thông truyền tất cả những gì Người đã sống trọn vẹn nhất. Người chia sẻ cho ta “bí quyết riêng” của Người, bí quyết giúp Người thành công vô song, giúp Người được vinh quang, phấn khởi, tươi vui: đó là sự kết hiệp mật thiết của Người với Chúa Cha, được bày tỏ trong hình ảnh thân mật “cư ngụ trong nhau”: Cha ở trong con. Đức Giêsu là con người hoàn toàn thoát khỏi cái tôi, để trọn vẹn “ở trong Chúa Cha”.
Lời nói của Người ư? Đó là những lời của Chúa Cha (Ga 3,2; 7,16; 8,26.38.40…): Yêu thương.
Ý muốn của Người ư? Đó là ý muốn của Chúa Cha (Ga 4, 34; 5,30; 6,38 …): Yêu thương.
Hành động của Người ư? Đó là hành động của Chúa Cha (Ga 5,17. 20.30.36; 8,28 …): Yêu thương.
Con người của Người ư? Đó là con người của Chúa Cha (Ga 10,30) “Cha và con, chúng ta là một”: yêu thương.
Hình tượng của Chúa Ba Ngôi đó là “mô hình” cho chúng ta, là chương trình hành động của chúng ta trong phạm vi gia đình, thành phố, nghề nghiệp, đoàn nhóm, Giáo hội và mọi tương quan yêu thương!
Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cứng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.
Lời nói “Con muốn” trên đây của Đức Giêsu là lời nói duy nhất trong toàn bộ Tin Mừng: một kiểu nói đòi hỏi ít gặp thấy trên môi miệng rất “tùng phục” của Người đối với Chúa Cha; thế nhưng lại mang đầy ý nghĩa. Vậy ý muốn duy nhất của Đức Giêsu là gì, khiến Người đã mạnh dạn nài xin Chúa Cha như thế? Biết bao người đã chia sẻ “số phận diệu kỳ của Người con yêu dấu, là thứ hạnh phúc mà chính Người đã cảm mến trước khi thế gian được tạo thành. Chúng ta không nên lướt nhanh trên những kiểu nói thực sự đã làm ta choáng váng: Thực sự đó là “bản tính Thiên Chúa”, hiện hữu trước khi thế giới lộ hình, mà Đức Giêsu muốn khai mở cho chúng ta thấy.
Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con, Con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai Con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa.
Đó là thảm kịch của Đức Giêsu. Là cuộc thương khó là nỗi đau khổ luôn ám ảnh suốt đời Ngài. Đó là từ chối của con người trước “đề nghị” của Thiên Chúa. Là sự khước từ tình yêu Khước từ giao ước. “Bạn có muốn chung sống” với tôi không? – Không. Chúng ta có thuộc vào số những người mà Đức Giêsu nói đến, những người “nhận biết” món quà tặng phi thường được trao hiến cho họ không? Chúng ta có trở nên “Hiền thê” của sách Khải huyền hoàn toàn sung sướng không?
Để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa.
Lời nguyện của Đức Giêsu đã kết thúc bằng những lời trên đây. Sang câu kế tiếp, ta sẽ bước vào vườn Ôliu, để chứng kiến cuộc nộp bắt do Giuđa dẫn đầu.
Ta có thể nghĩ rằng, Đức Giêsu vẫn tiếp tục những tư tưởng cầu nguyện như thế, trong những giờ phút cuối cùng của đời Người. Ta cũng có thể nghĩ rằng, ở trên trời, Người vẫn tiếp tục chuyển cầu như trên. Chóp đỉnh thực sự quan trọng của Tin Mừng, “Tin vui” lớn lao: đó là chính Tình yêu của Thiên Chúa, Tình yêu Ba Ngôi, Tình yêu Chúa Cha đã yêu Chúa con, Tình yêu tuyệt đối và vô biên của Thiên Chúa, được chia sẻ cho mọi người muốn đón nhận.
Điều đang hoạt động giữa lòng nhân loại, trong những toan tính yêu thương bé nhỏ đáng thương của ta, cho dù có bất toàn đi nữa, thì thực sự đó là “mối tương quan hoàn hảo, kết hợp các ngôi vị trong Thiên Chúa Ba Ngôi tình yêu” mà một ngày nào đó, chúng ta sẽ được nối lại!
11. Chú giải của Fiches Dominicales
LỜI CẦU NGUYỆN TRỌNG ĐẠI CỦA ĐỨC GIÊSU XIN CHO HỌ NÊN MỘT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Tiếp theo diễn từ giã biệt
Xưa kia, trước khi ông Môsê lìa xa các môn đệ, thì ở phần cuối những lời từ biệt, ông đã cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho các chi tộc Israel (Đnl 33). Cũng thế, trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu, Môsê mới, trước khi lìa xa các môn đệ cũng ngước mắt lên trời đàm thoại với Cha Người. Người thâu tóm một trật trong lời cầu của mình, cả quá khứ những ngày sống ở trần gian, cả tương lai đang chờ đón Người và các môn đệ.
– Trước hết Người cầu cho chính mình (c. 1-5).
Rồi nhắc đến tình thế do cuộc ra đi của Người gây nên, Người cầu cho các môn đệ (c.6-19).
– Và sau cùng Người cầu cho các tín hữu tương lai (c.20- 26). Sách Bài đọc đã trích đoạn sau cùng này để đọc trong Chúa nhật VII Phục sinh.
2. …là lời cầu nguyện trọng đại của Đức Giêsu.
Đức Giêsu cầu xin: “Xin cho họ nên một” bằng hai vế (c 20-21 và 22-23), được kết cấu theo kiểu song hành.
Từ ngữ “nên một” không phải được sử dụng lần đầu nơi Gioan. Đức Giêsu dùng từ ngữ đó để chỉ sự liên kết giữa Người với Cha (10.30) và Người cũng đã áp dụng cho các tín hữu: “Sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (10, 16). Còn trong lời cầu nguyện cho các môn đệ lúc này, từ ngữ đó còn vượt xa mối liên hệ tình cảm giữa các tín hữu, nó chỉ sự hiệp nhất thuộc hữu thể và xuất phát từ sự hiệp thông của Thiên Chúa. X. Léon-Dufour giải thích: “Thật vậy, đọc mấy câu trước và câu sau này thì ta hiểu: sự hiệp nhất nên một của các “tín hữu bắt nguồn từ sự hiệp nhất của Chúa Cha và Chúa Con”
Chính nhờ sự hiệp nhất của các môn đệ mà người đời sẽ nhận biết rằng Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến: “Như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai Con”
– “Con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con”. Ở với Đức Giêsu bên cạnh Chúa Cha chính là “chiêm ngưỡng vinh quang của Người” – tác giả giải thích tiếp – là được thấy người mặt đối mặt, “Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2).
– Nhưng việc các tín hữu được dự phần vào vinh quang của Người Con duy nhất, phát xuất từ việc cũng ở lại với nhau, vốn sẽ là đặc điểm của đời sống đức tin. Bởi vậy, lời nguyện kết thúc bằng câu: “Để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa”. Sự chiêm ngưỡng cuối cùng chỉ có thể xảy ra, nếu nó đã được khởi đầu trong cuộc đời người Kitô hữu.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Dấu chỉ của Thiên Chúa nơi trần gian
Đức Giêsu đã sống những giờ phút sau hết của cuộc đời trần thế của mình với nhóm nhỏ môn đệ. Người sắp bị nộp vào tay những kẻ toan giết Người.
Đó là “giờ của Người”. Tuy nhiên ánh mắt của Người không bị lu mờ vì những lo âu của giờ phút ấy. Anh mắt ấy mở rộng tầm nhìn hướng về đám đông những người sẽ tin theo Người cho đến ngày tận thế. Chúng ta cũng nằm trong số những kẻ được Chúa cầu nguyện cho, cùng với các môn đệ Chúa thuộc mọi thế hệ. “Con không chỉ cầu cho những người này nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con”.
Chúng ta được lời cầu nguyện của Chúa nâng đỡ. Đó không phải là nơi nương tựa của ta đó sao? Người cầu xin điều gì cho các kẻ tin Người chỉ xin có một điều duy nhất: “Cho họ được nên một, như Cha ở trong Con là như Con ở trong Cha, cho họ cũng ở trong chúng ta”.
Ta luôn bị cám dỗ hiểu sai những lời này, không dám bạo dạn và hiểu đúng tầm mức. Có khi chúng ta hiểu những lời đó như một bổn phận Đức Giêsu trao cho ta, để cổ võ sự hiệp nhất và xóa bỏ những chia rẽ. Sự hiệp nhất nên một mà Đức Giêsu nói ở đây không phải là một bổn phận Chúa trao cho ta đâu. Nó là một ân huệ của Chúa Cha, một ân huệ mà Đức Giêsu cầu xin cho ta. Nó chỉ là một nhiệm vụ phải chu toàn, bởi vì trước hết nó là một ân huệ. Hơn nữa, sự hiệp nhất mà Đức Giêsu xin cho ta nằm ngoài tầm tay của sức lực loài người: làm sao ta có thể hiệp nhất nên một cách thân mật như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha? Sự hiệp nhất thần linh này chỉ có thể thực hiện nơi chúng ta, nếu chính Thiên Chúa thực hiện trong ta. Đó chính là điều Đức Giêsu nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một, như chúng ta là một…” ước vọng của Đức Giêsu là các môn đệ đi vào sự hiệp thông đời sống, là chính sự sống của Thiên Chúa. Chính vì thế, Ngươi mới tỏ cho họ biết danh Chúa Cha và thông truyền cho họ tình yêu duy nhất phát xuất từ Chúa Cha: “để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa”.
Bởi vậy, cộng đoàn các môn đệ có thể trở thành dấu chỉ của chính Thiên Chúa giữa trần gian, dấu chỉ của Thiên Chúa là Tình yêu. Bởi vì họ ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa sống trong họ, chính nhờ họ mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho thế gian. Tình yêu nối kết họ là tình yêu của chính Thiên Chúa, là chính tình yêu nối kết Chúa Cha với Chúa Con. Cũng bởi vậy, cộng đoàn các môn đệ có thể khơi dậy đức tin: “Như vậy để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”. Đức Giêsu hướng về một mình Thiên Chúa. Sự hiệp nhất toàn bích đến từ Thiên Chúa và liên kết các môn đệ lại với nhau, là biểu hiệp sự hiện diện của Thiên Chúa, giữa thế gian. “Như vậy, thế gian có thể nhận biết rằng chính Cha đã sai Con vì đã yêu thương họ như Cha đã yêu thương Con”. Ơn gọi của chúng ta vĩ đại dương nào Này đây chúng ta được gọi để trở nên địa điểm cho Thiên Chúa tỏ mình cho thế gian? Chỉ có sức mạnh lời cầu nguyện của Đức Giêsu mọi có thể thực hiện được điều đó trong chúng ta.
2. Hội Thánh là hiệp thông
(HĐGM Pháp: “Giáo lý cho người lớn”, trg 187-188).
“Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Khi các tín hữu tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính, họ xác quyết rằng Hội Thánh được nhận biết nhờ những đặc điểm đó. Đó là những “điểm son” của Hội Thánh. Vì không chỉ mô tả mặt ngoài của Hội Thánh, mà còn nói lên chân lý sâu xa về mầu nhiệm Hội Thánh. Xác quyết những điều đó thuộc lãnh vực đức tin, chứ không phải chỉ nguyên nhờ nhìn bề ngoài mà biết được.
“Hội Thánh toàn cầu xuất hiện như một dân tộc mà hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”
Nguồn phát sinh sự hiệp nhất của Hội Thánh được nói đến trong thư thánh Phaolô gởi tín hữu Êphêsô: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người” (Ep 4,4-6).
Bởi vậy, Hội Thánh quả quyết rằng sự hiệp nhất Hội Thánh có được không do chính mình, mà là hồng ân của Chúa Thánh Thần.
Sự hiệp nhất này có thể nhìn thấy được, và theo lời Đức Kitô hứa, sẽ không bao giờ mất đi. Nó biểu hiện trong việc tuyên xưng cùng một đức tin, được định thức trong cùng một kinh Tin Kính. Sự hiệp nhất ấy có nền tảng là một phép Rửa duy nhất, làm cho mọi môn đệ Đức Kitô nên một dân tộc duy nhất.
Bí tích Thánh Thể, bí tích của sự hiệp nhất, củng cố, xây dựng và không ngừng canh tân sự hiệp thông giữa các tín hữu, liên kết họ lại với nhau bằng dây đức ái. Tác vụ tông đồ, tác vụ các Giám Mục, linh mục, phó tế là phục vụ cho sự hiệp thông của Hội Thánh.
Bởi vì sự hiệp nhất của Hội Thánh không chỉ do cơ cấu tổ chức tốt đẹp hay do kỷ luật chặt chẽ, mà do sự hiệp thông. Coi Hội Thánh như hiệp thông đó là “một khái niệm trung tâm và nền tảng” (Thượng HĐGM đặc biệt năm 1985). Khái niệm này được triển khai trong các lài liệu của Công Đồng Vatican II. Sự hiệp thông này là hiệp thông giữa Chúa Cha, với Con của Người, Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần (xem 1 Ga l,3) và là sự hiệp thông giữa các môn đệ trong tình bác ái.
Sự hiệp nhất còn là một yếu tố căn bản và cần thiết cho việc làm chứng của các tín hữu sống trong thế gian và cho sự khả tín của việc truyền giáo.