Lược sử Giáo họ nhà xứ Dâu

  1. Các thông tin cơ bản.

Địa chỉ nhà thờ: Thanh Khương, Khương Tự, Thuận Thành, Bắc Ninh.

Năm thành lập: 1936.

Bổn mạng: Thánh Albertô (15/11).

Số giáo dân: Dâu có 170 nhân danh sống rải rác trong thôn Khương Tự với dân số khoảng 1600 người (tức giáo dân chỉ chiếm hơn 10%). Người dân ở Dâu chủ yếu vẫn sống dựa vào đồng ruộng nhưng trong những năm gần đây, bà con đã chuyển dần sang các ngành dịch vụ – thương mại.

Các dòng tu, hội đoàn đang hiện diện và hoạt động: cộng đoàn Hiệp hội Đức Maria – Mẹ Sự Sống, hội Mân côi, hội Lòng Chúa Thương Xót, phong trào Thiếu nhi Thánh Thể.

Nhà thờ: Ngôi thánh đường xứ Dâu nằm bên tỉnh lộ 282, sát cạnh chùa Dâu, do cha Giuse Trần Đăng Can khởi công xây dựng năm 1998, hoàn thành giai đoạn 1 năm 2001 với gian cung thánh và 3 gian phía dưới, tnăm 2008 mới hoàn thiện giai đoạn 2 với 2 gian cuối và phần tháp. Nhà thờ có kiến trúc theo phong cách nhà rông Tây Nguyên kết hợp mặt bằng hình chữ Thập thời Phục Hưng. Nhà thờ có chiều dài 24m, chiều rộng 10m (nơi hẹp nhất) – 15m (nơi rộng nhất). Mái nhà thờ cao 14m, tháp chuông cao 28,5m với 2 quả chuông nhỏ, nặng khoảng 10kg/1 quả (trong đó 1 quả đúc ở Pháp, 1 quả đúc ở Nga).

Các giáo họ trực thuộc: Ngọc Khám, Tứ Cờ

  1. Lịch sử hình thành và phát triển

 Mảnh đất Dâu vốn là chiếc nôi của Phật giáo, có thành Luy Lâu là trung tâm chính trị thời Bắc thuộc  tại Việt Nam nên việc truyền giáo tại khu vực này rất khó khăn. Không có cứ liệu lịch sử nào ghi nhận việc truyền giáo tại đây trong suốt mấy thế kỉ từ khi có người Công giáo hiện diện ở Việt Nam. Thế nhưng, mảnh đất này đã đón nhận đức tin trong một hoàn cảnh vừa bình thường mà lại hết sức lạ lùng. Vào thập niên 20 của thế kỉ trước, ông Cao Văn Thoan là người Dâu về thăm anh em ở Đình Tổ (vốn đã đón nhận đức tin từ trước). Thấy đời sống của người Công giáo rất lạ, rất văn minh, quyền con người được đề cao, đặc biệt là thấy người người yêu thương nhau nên ông Thoan đã tiếp cận và tìm hiểu về đạo. Về quê nhà ở Dâu, ông Thoan kêu gọi anh em họ hàng, làng xóm cơm đùm cơm nắm xuống Đình Tổ học đạo. Càng học càng hiểu càng thấm, bà con Dâu nô nức xin ra nhập đạo. Người này giới thiệu cho người kia, số giáo dân ở Dâu gia tăng một cách nhanh chóng. Nhà thờ, nhà nguyện trong vùng được xây dựng cấp tốc, tuy đơn sơ nhưng người dân hân hoan, làng xóm vui mừng.

Tới năm 1936, giáo xứ Dâu được thiết lập với 12 họ đạo trực thuộc là: Thanh Hoài, Mãn Xá, Công Hà, Đông Cốc, Đồng Ngư, Phú Mỹ… và có các cha về coi sóc. Đời sống đức tin đang ngày một lớn mạnh thì biến cố năm 1954 xảy ra. Tuy không có nhiều người di cư vào Nam nhưng vì những o ép thời cuộc và lại là bổn đạo mới nên bà con giáo dân hoang mang sợ hãi rồi dần dần bỏ đạo. Vì thế mà từ một giáo xứ sầm uất, đời sống đạo ở Dâu trở nên yên ắng đến lạ thường. Đất nhà thờ bị chiếm dụng trước sự bất lực của 5 gia đình giáo dân trung kiên hết lòng yêu mến và quyết tâm giữ gìn Đạo Chúa tới cùng. Từ số giáo dân còn “sót” lại sau biến cố đau thương ấy, đời sống Đức tin xứ Dâu tưởng như đã đi vào quên lãng, tới nay lại hồi sinh và không ngừng bung lộc trổ hoa, hứa hẹn một mùa gặt bội thu.

  1. Đời sống đức tin:

Xứ Dâu có một số hội đoàn như: cộng đoàn Hiệp hội Đức Maria – Mẹ Sự Sống, hội Mân Côi, hội Lòng Chúa Thương Xót, phong trào Thiếu nhi Thánh Thể đang hoạt động. Ngoài ra còn có nhóm sinh viên công giáo đang theo học ở trường cao đẳng May thời trang Hà Nội thường xuyên sinh hoạt, cùng với một số giáo dân đang làm việc tại các khu công nghiệp lân cận. Trong tương lai, ở Dâu có thể sẽ có thêm rất nhiều di dân tới sinh hoạt nên cha xứ, hội đồng giáo xứ và ban hành giáo đặc biệt chú trọng đến vấn đề này.

BTT Giáo Phận