Tài Liệu Chung Kết Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XVI
GIỚI THIỆU
Chúa Giêsu đến, đứng giữa họ và nói: “Bình an cho anh em!”. Nói xong, Người cho họ xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được nhìn thấy Chúa (Ga 20,19-20).
1. Mỗi bước đi mới trong đời sống Giáo hội là một cuộc trở về nguồn, một kinh nghiệm mới mẻ về sự gặp gỡ với Đấng Phục Sinh mà các môn đệ đã trải qua trong Căn Gác Thượng vào buổi chiều ngày Phục sinh. Giống như họ, khi tham gia khóa Hội nghị Thượng Hội đồng này, chúng tôi cũng cảm nhận mình được bao bọc bởi lòng Chúa thương xót và được chạm đến vẻ đẹp của Người. Với thái độ đối thoại trong Thánh Thần, lắng nghe nhau, chúng tôi nhận ra sự hiện diện của Người giữa chúng tôi: sự hiện diện của Đấng mà qua việc trao ban Thánh Thần vẫn tiếp tục thôi thúc Dân của Người hướng đến một sự hiệp nhất vốn là sự hòa hợp những khác biệt.
2. Khi chiêm ngưỡng Đấng Phục Sinh, chúng ta nhớ rằng “chúng ta đã được thanh tẩy trong cái chết của Người” (Rm 6,3). Chúng ta đã nhìn thấy những dấu thương nơi Người, được biến đổi bởi sự sống mới, nhưng chúng mãi mãi được khắc ghi trong nhân tính của Người. Những vết thương này tiếp tục rỉ máu trên thân xác của nhiều anh chị em, cũng vì tội lỗi của chúng ta. Việc nhìn lên Chúa không tách chúng ta ra khỏi những bi kịch của lịch sử, nhưng mở mắt chúng ta để nhận ra những đau khổ bao quanh và thấm sâu vào chúng ta: khuôn mặt của những đứa trẻ kinh hoàng vì chiến tranh, tiếng khóc của những bà mẹ, những giấc mơ tan vỡ của nhiều người trẻ, những người tị nạn phải đối mặt với cuộc hành trình khủng khiếp, những nạn nhân của sự biến đổi khí hậu và của những bất công xã hội. Những đau khổ của họ vang vọng giữa chúng ta không chỉ qua các phương tiện truyền thông, mà còn qua tiếng nói của nhiều người, những người có liên quan trực tiếp với gia đình và đồng bào của họ trong những biến cố bi thảm này. Trong những ngày chúng tôi qui tụ cho khóa Hội nghị này, quá nhiều, quá nhiều cuộc chiến vẫn tiếp tục gây ra chết chóc và tàn phá, gây ra lòng khao khát trả thù và sự táng tận lương tâm. Chúng tôi liên kết với Đức Thánh Cha Phanxicô trong những lời kêu gọi hòa bình được lặp đi lặp lại của ngài, lên án logic của bạo lực, hận thù, trả thù, và cam kết thúc đẩy logic của đối thoại, của tình huynh đệ và sự hòa giải. Một nền hòa bình đích thực và bền vững là điều có thể thực hiện được, và chúng ta có thể cùng nhau xây dựng nó. “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, của người nghèo, nhất là của tất cả những người đau khổ” (GS 1) cũng là niềm vui nỗi buồn của tất cả chúng ta, những môn đệ của Chúa Kitô.
3. Kể từ khi Đức thánh cha mở Thượng Hội đồng này vào năm 2021, chúng ta đã dấn bước vào một hành trình trong đó ta ngày càng khám phá ra sự phong phú và hiệu năng của nó. Chúng ta lắng nghe, cẩn thận lắng nghe từ rất nhiều tiếng nói những gì “Thánh Thần nói với các Giáo Hội” (Kh 2,7). Cuộc hành trình bắt đầu với sự tham khảo rộng rãi ý kiến của Dân Chúa trong các giáo phận thuộc các Giáo hội của chúng ta. Nó tiếp tục với các giai đoạn quốc gia và lục địa, trong cuộc đối thoại vòng tròn được Tổng Thư ký Thượng Hội đồng thường xuyên khởi động lại thông qua các tài liệu tổng hợp và tài liệu làm việc. Việc tiến hành Hội nghị Toàn thể Thường kỳ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục trong hai khóa họp giờ đây cho phép chúng ta trình bày lên Đức thánh cha và tất cả các Giáo hội chứng từ về những gì mình đã trải qua và hoa trái phân định của chúng ta, nhằm đem lại một động lực mới cho sứ mạng. Trong mọi giai đoạn của nó, cuộc hành trình được in dấu sự khôn ngoan từ “cảm thức đức tin” của Dân Thiên Chúa. Từng bước chúng ta hiểu được rằng ở trọng tâm của Thượng Hội đồng 2021-2024 – Hướng tới một Giáo hội hiệp hành: Hiệp thông, tham gia, sứ mạng – là một lời kêu gọi hướng đến niềm vui và sự canh tân Giáo hội qua việc bước theo Chúa, qua sự dấn thân phục vụ sứ mạng của Người, và qua việc tìm kiếm những phương cách để trung thành với Người.
4. Lời kêu gọi này dựa trên căn tính chung do Phép Rửa, bắt nguồn trong tính đa dạng của các bối cảnh trong đó Giáo hội hiện diện và tìm thấy sự hiệp nhất trong một Chúa Cha, trong một Chúa Con và trong một Thánh Thần. Nó thách đố tất cả những ai đã lãnh Phép Rửa, không có ngoại lệ: «Tất cả Dân Thiên Chúa đều là chủ thể của việc loan báo Tin Mừng. Trong đó, mọi người đã lãnh Phép Rửa đều được mời gọi trở thành tác nhân chủ yếu của sứ mạng, vì tất cả chúng ta đều là những môn đệ thừa sai” (CTI, số 53). Con đường hiệp hành vì thế hướng chúng ta đến sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình giữa các Kitô hữu, như đã được làm chứng bằng sự hiện diện của các đại biểu thuộc các truyền thống Kitô giáo khác. Sự hiệp nhất âm thầm dậy men bên trong Hội Thánh của Thiên Chúa: đó là lời tiên tri về sự hiệp nhất cho toàn thế giới.
5. Toàn bộ hành trình hiệp hành, bắt nguồn từ Truyền thống của Giáo hội, đã hiện lộ ra trong ánh sáng của giáo huấn Công đồng. Thật vậy, Công đồng Vatican II giống như một hạt giống được gieo trên cánh đồng của thế giới và của Giáo hội. Cuộc sống hằng ngày của các tín hữu, kinh nghiệm của các Giáo hội nơi mỗi dân tộc và mỗi nền văn hóa, những chứng từ đa dạng về sự thánh thiện, suy tư của các nhà thần học… là mảnh đất để hạt giống ấy nảy mầm và phát triển. Thượng Hội đồng 2021-2024 tiếp tục phát huy năng lượng của hạt giống đó và phát triển tiềm năng của nó. Trên thực tế, con đường hiệp hành là thực hiện những gì Công đồng đã dạy về Giáo hội xét như Mầu nhiệm và xét như Dân Thiên Chúa, được mời gọi nên thánh xuyên qua việc hoán cải không ngừng nhờ lắng nghe Phúc Âm. Theo nghĩa này, con đường hiệp hành là một hành vi đích thực tiếp tục tiếp nhận Công đồng, kéo dài nguồn cảm hứng của Công đồng và phát động lại năng lực ngôn sứ của Công đồng cho thế giới hôm nay.
6. Chúng tôi không che giấu sự thật rằng chúng tôi đã cảm thấy nơi mình sự mệt mỏi,sự đề kháng thay đổi, và cái cám dỗ lấy suy nghĩ của mình lấn át việc lắng nghe Lời Chúa và việc thực hành phân định. Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa, là Cha vô cùng dịu dàng, cho phép chúng tôi luôn thanh lọc tâm hồn và tiếp tục bước đi. Chúng tôi đã nhận ra điều này khi bắt đầu khóa Hội nghị thứ hai với Đêm Canh thức Sám hối, trong đó chúng tôi cầu xin sự tha thứ cho tội lỗi của mình, cảm thấy xấu hổ về những tội lỗi ấy, và dâng lời chuyển cầu cho các nạn nhân của sự dữ trên thế giới. Chúng ta đã gọi tên tội lỗi của mình: chống lại hòa bình, chống lại công trình tạo dựng, chống lại những sắc dân bản địa, những người di cư, trẻ vị thành niên, phụ nữ, người nghèo, chống lại việc lắng nghe và sự hiệp thông. Điều này giúp chúng ta hiểu rằng tính hiệp hành đòi hỏi sự sám hối và hoán cải. Khi cử hành bí tích Lòng Chúa Thương Xót, chúng ta cảm nghiệm mình được yêu thương một cách vô điều kiện: sự cứng cỏi của trái tim được vượt qua và chúng ta mở lòng đón nhận sự hiệp thông. Chính vì thế, chúng tai muốn trở thành một Giáo hội đầy thương xót, có khả năng chia sẻ với mọi người ơn tha thứ và hòa giải đến từ Thiên Chúa: đó thuần túy là ân sủng mà chúng ta không phải là chủ nhân, nhưng chỉ là những chứng nhân.
7. Chúng ta đã có thể nhìn thấy những hoa trái đầu tiên của con đường hiệp hành bắt đầu vào năm 2021. Những điều đơn giản nhất nhưng quý giá nhất bừng dậy trong đời sống các gia đình, các giáo xứ, các Hiệp hội và Phong trào, các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ, các trường học và các cộng đoàn tu sĩ, trong đó việc thực hành đối thoại trong Thánh Thần, việc cùng nhau phân định, việc chia sẻ các quà tặng ơn gọi và tinh thần đồng trách nhiệm trong sứ mạng đang gia tăng. Cuộc gặp gỡ của các Cha xứ hướng về Thượng Hội đồng (Sacrofano [Rome], từ 28 tháng 4 đến 2 tháng 5 năm 2024) đã giúp chúng ta biết trân trọng những kinh nghiệm phong phú ấy và phát động lại cuộc hành trình. Chúng tôi biết ơn và vui mừng trước những tiếng nói của nhiều cộng đoàn và các tín hữu cảm nhận Giáo hội là nơi của tiếp đón, hy vọng và niềm vui.
8. Khóa Hội nghị thứ nhất đã mang lại những kết quả khác nữa. Trong bản Báo cáo Tổng hợp, sự chú ý được kêu gọi đặt vào một số chủ đề có liên quan mật thiết đến đời sống của Giáo hội, mà Đức thánh cha, khi kết thúc cuộc tham vấn quốc tế, đã giao phó cho các Nhóm Nghiên Cứu gồm các mục tử và các chuyên gia từ khắp các châu lục, được kêu gọi làm việc với phương thức hiệp hành. Các lĩnh vực của đời sống và sứ mạng của Giáo hội được bắt đầu nghiên cứu là:
1/ Một số khía cạnh trong mối tương quan giữa Giáo hội Công giáo Đông phương và Giáo hội La tinh.
2/ Lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và của trái đất.
3/ Sứ mạng trong môi trường kỹ thuật số.
4/ Việc tu chỉnh Qui chế Đào tạo Linh mục (Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis) trong nhãn quan hiệp hành sứ mạng.
5/ Một số vấn đề thần học và giáo luật xung quanh các hình thức thừa tác vụ chuyên biệt.
6/ Việc tu chỉnh, trong nhãn quan hiệp hành và sứ mạng, các văn kiện quy định những mối quan hệ giữa các giám mục, các tu sĩ, các tổ chức thuộc Giáo hội.
7/ Một số khía cạnh về con người của giám mục và về sứ vụ của ngài (cách riêng: các tiêu chí lựa chọn ứng viên vào hàng giám mục, chức năng tư pháp của giám mục, bản chất và việc thực hiện các chuyến viếng thăm ad limina Apostolorum) trong nhãn quan hiệp hành sứ mạng.
8/ Vai trò của các Đại diện Giáo hoàng trong nhãn quan hiệp hành sứ mạng.
9/ Các tiêu chí thần học và các phương pháp luận hiệp hành để cùng nhau phân định các vấn đề gây tranh cãi về giáo lý, mục vụ và đạo đức.
10/ Việc đón nhận những hoa trái của cuộc hành trình đại kết trong Dân Thiên Chúa.
Được bổ sung vào các Nhóm Nghiên Cứu này là Ủy ban Giáo luật, hoạt động trong sự đồng thuận với Bộ Văn bản Lập pháp, nhằm phục vụ những đổi mới cần thiết trong các qui chuẩn Giáo hội, và sự phân định được ủy thác cho Symposium (Hội nghị chuyên đề) của các Hội đồng Giám mục Phi châu và Madagascar về việc đồng hành mục vụ với những người trong hoàn cảnh hôn nhân đa thê. Công việc của các Nhóm và các Ủy ban này đã bắt đầu giai đoạn triển khai, đã làm phong phú thêm công việc của Khóa Hội nghị thứ hai, và sẽ giúp Đức thánh cha trong các lựa chọn mục vụ và quản trị.
9. Tiến trình Thượng Hội đồng không kết thúc với sự kết thúc của Khóa Hội nghị Thượng hội đồng Giám mục này, nhưng bao gồm cả giai đoạn thực hiện. Với tư cách là thành viên của Khóa Hội nghị, chúng tôi cảm thấy nhiệm vụ của mình là tham gia làm sống hoạt nó trong tư cách những nhà thừa sai của tính hiệp hành trong các cộng đoàn sở tại của mình. Chúng tôi kêu gọi tất cả các Giáo hội địa phương tiếp tục cuộc hành trình hằng ngày của mình với một phương pháp tham vấn và phân định có tính hiệp hành, xác định các phương pháp cụ thể và các đường lối đào tạo để đạt được một sự hoán cải cụ thể có tính hiệp hành trong các thực tế khác nhau của Giáo hội (các giáo xứ, các hội dòng đời sống thánh hiến và các hiệp hội đời sống tông đồ, các tổ chức tín hữu, các giáo phận, các Hội đồng Giám mục, các nhóm Giáo hội, v.v.). Cũng phải dự liệu việc đánh giá sự tiến bộ đạt được về tính hiệp hành và về sự tham gia vào đời sống Giáo hội của tất cả những người đã lãnh Phép Rửa. Chúng tôi đề nghị các Hội đồng Giám mục và các Thượng hội đồng của các Giáo hội tự trị (sui iuris) hãy dành nhân lực và các nguồn lực để đồng hành trên lộ trình phát triển xét như một Giáo hội hiệp hành trong sứ mạng, và duy trì liên lạc với Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng (x. EC 19 §§ 1 và 2) . Chúng tôi yêu cầu tiếp tục giám sát chất lượng hiệp hành trong phương pháp làm việc của các Nhóm Nghiên Cứu.
10. Được trình lên Đức thánh cha và các Giáo hội như là kết quả của Hội nghị Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI, Tài liệu Chung kết này rút ra từ tất cả các bước đã được thực hiện cho đến nay. Nó tập hợp một số điểm hội tụ quan trọng đã hiện lộ trong Khóa Hội nghị thứ nhất, những đóng góp từ các Giáo hội trong những tháng giữa Khóa thứ nhất và Khóa thứ hai, và những gì đã chín muồi, trên hết nhờ việc đối thoại trong Thánh Thần diễn ra trong Khóa họp thứ hai.
11. Tài liệu Chung kết này diễn tả ý thức rằng tiếng gọi thi hành sứ mạng đồng thời cũng là tiếng gọi hoán cải đối với mỗi Giáo hội địa phương và đối với Giáo hội toàn thể, trong nhãn giới được nêu trong Tông huấn Evangelii gaudium (x. số 30). Văn bản này có năm phần. Phần thứ nhất, có tựa đề “Trọng tâm của tính hiệp hành”, phác thảo các nền tảng thần học và linh đạo nhằm soi sáng và trợ lực cho những phần tiếp theo. Nó nêu lại nhận thức chung về tính hiệp hành đã hiện lộ trong Khóa họp đầu tiên và phát triển các nhãn giới ngôn sứ và linh đạo của hiệp hành. Việc hoán cải các tâm cảm, các hình ảnh và suy nghĩ trong tâm hồn chúng ta diễn ra cùng với việc hoán cải hoạt động mục vụ và sứ mạng. Phần thứ hai, mang tựa đề “Cùng nhau trên thuyền”, được dành riêng đề cập việc hoán cải các mối tương quan nhằm xây dựng cộng đoàn Kitô hữu và định hình cho sứ mạng trong sự đan kết các ơn gọi, các đặc sủng và các thừa tác vụ. Phần thứ ba, “Thả lưới”, xác định ba thực hành nối kết mật thiết với nhau: sự phân định trong Giáo hội, các tiến trình đưa ra quyết định, và một nền văn hóa của sự minh bạch, của tính khả tín và của việc lượng giá. Ngay cả đối với những điều này, chúng ta cũng được yêu cầu khai mở những lộ trình “chuyển hóa sứ mạng”, mà để được như vậy thì thật khẩn thiết phải cải tổ các cơ quan tham gia. Phần thứ tư, dưới tựa đề “Một mẻ lưới đầy”, vạch ra cách thức có thể phát triển theo những hình thức mới việc trao đổi các ân ban và việc đan kết những mối dây liên kết chúng ta trong Giáo hội, vào một thời đại mà kinh nghiệm về việc bám rễ ở một nơi đang thay đổi sâu sắc. Tiếp theo là phần thứ năm, “Thầy cũng sai anh em”, cho phép chúng ta xem xét bước đầu tiên cần thực hiện: đó là, chăm lo việc đào tạo mọi người trong Dân Chúa về tính hiệp hành trong sứ mạng.
12. Việc biên soạn Tài liệu Chung kết này được hướng dẫn bởi các trình thuật Tin Mừng về Phục Sinh. Việc chạy đến ngôi mộ vào lúc sáng sớm ngày Phục Sinh, việc Chúa Phục Sinh hiện ra trong Căn Gác Thượng và trên bờ Biển hồ đã truyền cảm hứng cho sự phân định của chúng tôi và nâng đỡ cuộc đối thoại của chúng tôi. Chúng tôi cầu xin ân ban Phục Sinh của Chúa Thánh Thần, kêu xin Ngài dạy cho chúng tôi biết những gì phải làm và chỉ cho chúng tôi con đường để cùng nhau bước đi. Với tài liệu này, Hội nghị nhìn nhận và làm chứng rằng tính hiệp hành, một chiều kích cấu thành Giáo hội, vốn là một phần kinh nghiệm của nhiều cộng đoàn chúng ta. Đồng thời, nó gợi những nẻo đường để theo, những thực hành để triển khai, những chân trời để khám phá. Đức thánh cha, người đã triệu tập Giáo hội tại Thượng hội đồng này, sẽ nói với các Giáo hội, được giao phó cho sự săn sóc mục vụ của các giám mục, về cách thức tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta – cuộc hành trình được nâng đỡ bởi niềm hy vọng “không làm thất vọng” (Rm 5,5).
PHẦN I- TRỌNG TÂM CỦA TÍNH HIỆP HÀNH
Được Chúa Thánh Thần Kêu Gọi Hoán Cải
Vào ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mácđala ra mộ vào sáng sớm, lúc trời vẫn còn tối, và thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến (Ga 20,1-2).
13. Vào buổi sáng Phục Sinh, chúng ta gặp ba môn đệ: Maria Macđala, Simon Phêrô, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Mỗi người tìm kiếm Chúa theo cách riêng của mình; mỗi người có vai trò riêng của mình trong buổi bình minh của niềm hy vọng. Maria Macđala được tình yêu thúc đẩy và dẫn chị đến ngôi mộ đầu tiên. Được chị báo tin, Phêrô và người môn đệ Chúa yêu đi ra mộ; người môn đệ Chúa yêu chạy đi với sức trẻ, tìm kiếm bằng cái nhìn chăm chú của người trực giác trước, nhưng biết nhường chỗ cho người lớn tuổi hơn vốn đã nhận nhiệm vụ hướng dẫn; Phêrô, lòng nặng trĩu vì đã chối bỏ Chúa, đang chờ đợi cuộc hẹn gặp gỡ lòng thương xót mà ông sẽ là một thừa tác viên trong Giáo hội. Maria vẫn ở trong vườn, nghe gọi chính tên mình, chị nhận ra Chúa, Đấng sai chị đi loan báo sự Phục sinh của Người cho cộng đoàn các môn đệ. Vì lý do này Giáo hội nhìn nhận chị là Tông Đồ của các Tông Đồ. Sự phụ thuộc lẫn nhau của họ là hiện thân của trọng tâm tính hiệp hành.
14. Giáo hội hiện hữu để làm chứng cho thế giới về biến cố mang tính quyết định trong lịch sử: sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúa Phục sinh mang lại bình an cho thế giới và ban cho chúng ta quà tặng là Thánh Thần của Người. Chúa Kitô hằng sống là nguồn tự do đích thực, là nền tảng của niềm hy vọng không làm thất vọng, là sự mặc khải về khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và về vận mệnh cuối cùng của con người. Các Tin Mừng dạy chúng ta rằng để bước vào đức tin Phục Sinh và trở thành chứng nhân của đức tin này, cần phải nhận ra sự trống rỗng nội tâm của mình, bóng tối của sự sợ hãi, sự nghi ngờ, và tội lỗi. Nhưng những ai ở trong bóng tối có can đảm ra đi tìm kiếm, thì thực tế họ sẽ khám phá ra rằng chính mình được tìm kiếm, được gọi đích danh, được tha thứ và được sai đi cùng với anh chị em mình.
Giáo hội Dân Thiên Chúa, Bí tích của sự Hiệp nhất
15. Căn tính của Dân Thiên Chúa bắt nguồn từ Phép Rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nó được thực hiện như một lời mời gọi nên thánh và việc sai đi vào sứ mạng kêu gọi mọi dân tộc đón nhận hồng ân cứu độ (x. Mt 28,18-19). Do đó, chính từ Bí tích Phép Rửa – trong đó Chúa Kitô cho chúng ta mặc lấy chính Người (x. Gl 3,27) và làm cho chúng ta được tái sinh bởi Thánh Thần (x. Ga 3,5-6) trở nên con cái Thiên Chúa – mà Giáo hội có tính sứ mạng thừa sai và hiệp hành đã ra đời. Tất cả đời sống Kitô hữu đều có nguồn gốc và chân trời trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm khơi dậy trong chúng ta năng động của đức tin, đức cậy và đức ái.
16. “Thiên Chúa muốn thánh hóa và cứu rỗi con người không phải một cách rời rạc và không có bất kỳ mối liên kết nào giữa họ, nhưng Ngài muốn thiết lập họ thành một Dân nhìn nhận Ngài trong sự thật và phục vụ Ngài trong sự thánh thiện” (LG 9). Dân Thiên Chúa trên hành trình tiến về Nước Trời được nuôi dưỡng không ngừng bằng Bí tích Thánh Thể, nguồn mạch của hiệp thông và hiệp nhất: “Vì chỉ có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều, vẫn chỉ là một thân thể: vì tất cả chúng ta đều chia sẻ một tấm bánh duy nhất” (1Cr 10,17). Giáo hội, được nuôi dưỡng bởi bí tích Thân Thể của Chúa, được thiết lập như Thân Mình của Người (x. LG 7): “Anh em là Thân Mình của Chúa Kitô và mỗi người là chi thể của Người” (1Cr 12,27). Được ân sủng làm sống động, Giáo hội là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (x. LG 4): thực vậy, chính Chúa Thánh Thần là Đấng làm sống động và xây dựng Giáo hội, làm cho tất cả chúng ta trở nên những viên đá sống động của một tòa nhà thiêng liêng (x. 1Pr 2,5; LG 6) .
17. Diễn trình Thượng Hội đồng đã giúp chúng tôi kinh nghiệm “hương vị thiêng liêng” (EG 268) là Dân Thiên Chúa, được quy tụ từ mọi sắc tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia, sống trong những bối cảnh và những nền văn hóa khác nhau. Dân Thiên Chúa không bao giờ đơn giản chỉ là tổng số những người đã lãnh Phép Rửa, nhưng là chủ thể có tính tập thể và tính lịch sử của tính hiệp hành và sứ mạng, vẫn còn lữ hành trong thời gian và đã hiệp thông với Giáo hội trên trời. Trong những bối cảnh khác nhau trong đó các Giáo hội riêng biệt bén rễ, Dân Chúa loan báo và làm chứng cho Tin Mừng cứu độ; sống trong thế giới và cho thế giới, Dân Chúa đồng hành với mọi dân tộc trên trái đất, đối thoại với các tôn giáo và các nền văn hóa, nhận ra trong đó những hạt giống của Lời, và tiến về Nước Trời. Được tháp nhập vào Dân này bằng đức tin và Phép Rửa, chúng ta được nâng đỡ và đồng hành bởi Đức Trinh Nữ Maria, là “dấu chỉ của niềm hy vọng và niềm an ủi chắc chắn” (LG 68), bởi các Tông đồ, bởi những người đã làm chứng cho đức tin của mình đến mức trao hiến mạng sống, và bởi các thánh ở mọi nơi và mọi thời.
18. Trong Dân thánh của Thiên Chúa là Giáo hội, sự hiệp thông của các tín hữu (communio Fidelium) cũng là sự hiệp thông của các Giáo hội (communio Ecclesiarum), được thể hiện trong sự hiệp thông của các Giám mục (communio Episcoporum), bởi chính nguyên tắc cổ xưa là “Giáo hội ở trong Giám mục và Giám mục ở trong Giáo hội” (thánh Cyprianô, Thư 66, 8). Chúa đã đặt Tông Đồ Phêrô (x. Mt 16,18) và những người kế vị ngài để phục vụ sự hiệp thông đa diện này. Nhờ thừa tác vụ Phêrô, Giám mục Rôma là “nguyên tắc và nền tảng hữu hình và vĩnh viễn” (LG 23) của sự hiệp nhất Giáo hội.
19. “Trong trái tim Thiên Chúa có một chỗ ưu tiên dành cho người nghèo” (EG 197), những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và những người bị loại trừ, và do đó họ cũng có chỗ trong trái tim của Giáo hội. Nơi họ, cộng đoàn Kitô hữu gặp được khuôn mặt và xác thịt của Chúa Kitô, Đấng vốn giàu có nhưng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để chúng ta có thể trở nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Người (x. 2Cr 8,9). Việc ưu tiên lựa chọn người nghèo là điều tiềm ẩn trong đức tin Kitô học. Người nghèo có sự hiểu biết trực tiếp về Chúa Kitô đau khổ (x. EG 198), điều này làm cho họ trở thành những sứ giả của ơn cứu độ được đón nhận như một quà tặng, và là những chứng nhân cho niềm vui Tin Mừng. Giáo hội được kêu gọi trở nên nghèo với người nghèo, thường là thành phần chiếm đa số các tín hữu, và lắng nghe họ, cùng nhau học cách nhận ra các đặc sủng mà họ được Chúa Thánh Thần ban cho, và coi họ là những chủ thể của việc loan báo Tin Mừng.
20. “Đức Kitô là ánh sáng muôn dân” (LG 1) và ánh sáng này chiếu trên khuôn mặt của Giáo hội, ngay cả dù bị in dấu bởi sự mong manh của thân phận con người và sự che mờ bởi tội lỗi. Giáo hội nhận được từ Chúa Kitô ân ban và trách nhiệm trở thành chất men hữu hiệu của các mối liên kết, các mối tương quan và tình huynh đệ của gia đình nhân loại (x. AG 2-4), làm chứng trong thế giới về ý nghĩa và mục tiêu cuộc hành trình của mình (x. GS 3 và 42). Ngày nay, Giáo hội đảm nhận trách nhiệm này trong một thời đại bị đè nặng bởi cơn khủng hoảng về sự tham gia – nghĩa là khủng hoảng về cảm thức thuộc về và cảm thức mình là những tác nhân của một vận mệnh chung – và bởi quan niệm đậm tính cá nhân chủ nghĩa về hạnh phúc và về sự cứu rỗi. Ơn gọi và việc phục vụ ngôn sứ của Giáo hội (x. LG 12) cốt ở việc làm chứng cho kế hoạch của Thiên Chúa nhằm hiệp nhất toàn thể nhân loại với Ngài trong tự do và hiệp thông. Giáo hội, là “Vương quốc của Chúa Kitô vốn đã hiện diện một cách mầu nhiệm” (LG 3), và “là hạt giống và sự khởi đầu của Vương quốc này trên trái đất” (LG 5), do đó, Giáo hội cùng đồng hành với toàn thể nhân loại, dấn thân với tất cả năng lực của mình cho phẩm giá con người, cho công ích, công lý và hòa bình, và “khát vọng Vương quốc hoàn hảo” (LG 5), khi Thiên Chúa “có toàn quyền trên tất cả” (1Cr 15,28).
Những Gốc Rễ có tính Bí Tích của Dân Thiên Chúa
21. Con đường hiệp hành của Giáo hội đã giúp chúng ta khám phá lại rằng sự đa dạng của các ơn gọi, các đặc sủng và các tác vụ đều có một nguồn gốc: “Tất cả chúng ta đều được thanh tẩy bởi một Thánh Thần để trở thành một thân thể” (1Cr 12,13). Phép Rửa là nền tảng của đời sống Kitô hữu bởi vì nó trao cho mọi người ơn ban lớn nhất: trở thành con cái Thiên Chúa, nghĩa là tham dự vào mối tương quan của Chúa Giêsu với Chúa Cha trong Thánh Thần. Không có gì cao hơn phẩm giá này, vốn được ban cho mọi người một cách bình đẳng, làm cho chúng ta mặc lấy Chúa Kitô và được tháp vào Người như cành gắn liền với cây nho. Danh xưng “Kitô hữu” mà chúng ta vinh dự mang lấy chứa đựng chính ân sủng là nền tảng của sự sống chúng ta và giúp chúng ta bước đi cùng nhau như anh chị em.
22. Nhờ Bí tích Phép Rửa, “Dân thánh của Thiên Chúa cũng tham gia vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Kitô, làm chứng sống động cho Người trước hết bằng đời sống đức tin và đức ái” (LG 12). Nhờ việc xức dầu Thánh Thần khi lãnh nhận Phép Rửa (x. 1Ga 2,20.27), mọi tín hữu đều sở hữu một bản năng về sự thật của Tin Mừng, được gọi là cảm thức đức tin (sensus fidei). Nó hệ tại ở một sự tương hợp nào đó với các thực tại thần linh, dựa trên sự kiện là trong Chúa Thánh Thần, những người lãnh Phép Rửa “được tham dự vào bản tính thần linh” (DV 2). Từ sự tham dự này nhận được khả năng nắm bắt bằng trực giác những gì phù hợp với chân lý Mặc khải trong sự hiệp thông của Giáo hội. Vì lý do này, Giáo hội tin chắc rằng Dân thánh của Thiên Chúa không thể nhầm lẫn khi tin tưởng, khi mà tất cả những người đã lãnh Phép Rửa bày tỏ sự đồng thuận phổ quát của họ về các vấn đề đức tin và luân lý (x. LG 12). Việc thực thi cảm thức đức tin không được nhầm lẫn với công luận. Nó luôn gắn liền với sự phân định của các mục tử ở các cấp độ khác nhau của đời sống Giáo hội, như được thể hiện qua việc trình bày rõ ràng các giai đoạn của tiến trình Thượng Hội đồng. Nó nhằm mục đích đạt được sự đồng thuận của các tín hữu (consensus fidelium) vốn tạo nên “một tiêu chuẩn chắc chắn để xác định liệu một giáo thuyết hay một thực hành cụ thể có thuộc về đức tin tông truyền hay không” (Ủy ban Thần học Quốc tế, Cảm thức đức tin trong đời sống Giáo hội, 2014, số 3).
23. Qua Phép Rửa, mọi Kitô hữu đều tham dự vào cảm thức đức tin. Vì vậy, ngoài việc là nguyên tắc của tính hiệp hành, nó còn làm nên nền tảng của đại kết. “Con đường hiệp hành mà Giáo hội Công giáo đang đi theo là con đường thiết yếu có tính đại kết, cũng như con đường đại kết thiết yếu có tính hiệp hành” (Đức thánh cha Phanxicô, Diễn từ nói với Đức Thượng phụ Mar Awa III, ngày 19 tháng 11 năm 2022). Đại kết trước hết là vấn đề canh tân linh đạo. Nó đòi hỏi những tiến trình sám hối và chữa lành ký ức về những vết thương trong quá khứ, cho đến sự can đảm sửa sai huynh đệ trong tinh thần bác ái theo Tin Mừng. Khóa Hội nghị này đầy ắp những chứng từ có sức soi sáng từ các Kitô hữu thuộc các truyền thống Giáo hội khác nhau, những người chia sẻ tình thân hữu, việc cầu nguyện, việc chia sẻ đời sống và sự dấn thân phục vụ người nghèo cũng như chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta. Ở nhiều vùng trên thế giới, trước hết có sự đại kết bằng máu: các Kitô hữu thuộc các phái khác nhau cùng nhau trao hiến mạng sống mình vì đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Chứng từ tuẫn đạo của họ hùng hồn hơn bất cứ lời nào: đó là sự hiệp nhất bắt nguồn từ Thập Giá của Chúa.
24. Người ta không thể hiểu đầy đủ Phép Rửa ngoại trừ đặt trong toàn cục Khai tâm Kitô giáo, tức là hành trình qua đó – nhờ thừa tác vụ của Giáo hội và ân sủng của Chúa Thánh Thần – Chúa dẫn chúng ta đến với đức tin Phục sinh và đưa chúng ta vào mối hiệp thông Giáo hội và Ba Ngôi. Hành trình này có nhiều hình thức khác nhau đáng kể tùy thuộc vào độ tuổi của người thực hiện, những điểm nhấn khác nhau của các truyền thống Đông phương và Tây phương, cũng như các đặc điểm của mỗi Giáo hội địa phương. Việc khai tâm đưa ta vào tiếp xúc với nhiều ơn gọi và nhiều sứ vụ khác nhau trong Giáo hội. Trong đó người ta thấy diễn tả khuôn mặt thương xót của một Giáo hội dạy con cái mình bước đi bằng cách cùng bước đi với họ. Giáo hội lắng nghe họ, và khi trả lời những nghi ngờ và thắc mắc của họ, Giáo hội được nên phong phú thêm nhờ điều mới mẻ mà mỗi người mang nơi mình, với lịch sử và văn hóa của mình. Khi thực hành hoạt động mục vụ này, cộng đoàn Kitô hữu kinh nghiệm hình thức đầu tiên của tính hiệp hành, dù thường không nhận thức đầy đủ về nó.
25. Trong hành trình Khai tâm Kitô giáo, Bí tích Thêm sức làm phong phú đời sống của các tín hữu bằng việc tuôn đổ Thánh Thần cách đặc biệt nhằm mục đích làm chứng. Thánh Thần mà Chúa Giêsu được tràn đầy (x. Lc 4,1), Đấng đã thánh hiến Người bằng việc xức dầu và sai Người đi loan báo Tin Mừng (x. Lc 4,18), cũng chính là Thần Khí đổ xuống trên các tín hữu như dấu ấn của sự thuộc về Thiên Chúa và như việc xức dầu để thánh hóa. Vì lý do này, Bí tích Thêm Sức – làm cho ân sủng Lễ Hiện Xuống trở nên hiện diện trong đời sống của người đã lãnh Phép Rửa và của cộng đoàn – là một ân ban có giá trị lớn lao để tái hiện phép lạ của một Giáo hội được thúc đẩy bởi ngọn lửa sứ mạng, có sự can đảm để ra đi bước vào các nẻo đường của thế giới, và có khả năng làm cho chính mình được nhận hiểu bởi mọi dân tộc và mọi nền văn hóa. Mọi tín hữu đều được kêu gọi đóng góp vào động lực này, đón nhận các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban phát dồi dào cho mỗi người, và dấn thân dùng các đặc sủng ấy để phục vụ Nước Trời, với lòng khiêm nhường và năng lực sáng tạo phong phú.
26. Việc cử hành Bí tích Thánh Thể, nhất là vào ngày Chúa nhật, là cách thức thứ nhất và nền tảng để Dân thánh của Thiên Chúa qui tụ và gặp gỡ. Trong cử hành Thánh Thể, “sự hiệp nhất của Giáo Hội vừa được biểu thị vừa được thực hiện” (UR 2). Trong “sự tham gia đầy đủ, có ý thức và tích cực” (SC 14) của mọi tín hữu, trong sự hiện diện của các thừa tác vụ khác nhau và dưới sự chủ trì của giám mục hoặc linh mục, cộng đoàn Kitô hữu trở nên hữu hình, trong đó thể hiện tính đồng trách nhiệm có phân biệt của tất cả nhằm phục vụ cho sứ mạng. Vì lý do này, Giáo hội, là Thân Thể Chúa Kitô, học từ Bí tích Thánh Thể để diễn tả sự hiệp nhất và đa nguyên: sự hiệp nhất của Giáo hội và tính đa dạng của các cộng đoàn Thánh Thể; sự thống nhất của mầu nhiệm bí tích và sự đa dạng của các truyền thống phụng vụ; sự thống nhất của việc cử hành và sự đa dạng của các ơn gọi, các đặc sủng và các tác vụ. Không gì hơn Bí tích Thánh Thể trong việc cho thấy rõ rằng sự hòa hợp được Thánh Thần tạo ra không phải là sự đồng nhất, và mọi ơn ban trong Giáo hội đều nhằm mục đích thăng tiến thiện ích chung. Mỗi cử hành Thánh Thể cũng là một diễn tả ước muốn và lời kêu gọi sự hiệp nhất của mọi người đã lãnh Phép Rửa, sự hiệp nhất vốn chưa được hữu hình và trọn vẹn. Nơi nào không thể cử hành Thánh Thể vào ngày Chúa nhật, thì cộng đoàn, với lòng khát khao điều đó, vẫn tụ tập quanh việc cử hành Lời Chúa, trong đó Chúa Kitô vẫn hiện diện.
27. Có một mối liên kết chặt chẽ giữa synaxis và synodos, giữa cuộc qui tụ cử hành Thánh Thể và cuộc qui tụ đồng nghị. Mặc dù dưới những hình thức khác nhau, nhưng trong cả hai đều ứng nghiệm lời hứa của Chúa Giêsu sẽ hiện diện nơi có hai ba người tụ họp lại nhân danh Người (x. Mt 18,20). Các cuộc hội nghị hiệp hành là những sự kiện cử hành sự kết hợp của Chúa Kitô với Giáo hội của Người nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần là Đấng bảo đảm sự hiệp nhất nơi Thân Thể Giáo hội của Chúa Kitô trong cuộc qui tụ cử hành Thánh Thể cũng như trong cuộc qui tụ hiệp hành. Phụng vụ là việc lắng nghe Lời Chúa và hưởng ứng sáng kiến giao ước của Ngài. Cuộc qui tụ hiệp hành cũng là việc lắng nghe cùng một Lời ấy, vang âm cả trong các dấu chỉ của thời đại lẫn trong tâm hồn các tín hữu, và là một sự đáp trả của cuộc hội nghị nhằm phân định thánh ý của Thiên Chúa để đưa vào thực hành. Việc đào sâu mối liên kết giữa phụng vụ và tính hiệp hành sẽ giúp tất cả các cộng đoàn Kitô hữu – trong sự đa dạng của các nền văn hóa và các truyền thống của họ – vận dụng các phong cách cử hành thể hiện bộ mặt của một Giáo hội hiệp hành. Để đạt được mục tiêu này, chúng tôi yêu cầu thành lập một Nhóm Nghiên Cứu cụ thể, nhóm này cũng sẽ được ủy thác việc suy tư về cách thế làm cho các cử hành phụng vụ có sức diễn tả tính hiệp hành nhiều hơn; nhóm cũng có thể khảo sát việc giảng thuyết trong các cử hành phụng vụ và việc phát triển một khoa huấn giáo về tính hiệp hành nhờ một chìa khóa thần bí pháp (mystagogy).
Ý Nghĩa Và Các Chiều Kích Của Tính Hiệp Hành
28. Các thuật ngữ “tính hiệp hành” và “có tính hiệp hành” rút ra từ thực hành cổ xưa và thường xuyên trong Giáo hội liên quan đến việc tập hợp tại một công nghị. Trong truyền thống của các Giáo hội Đông phương và Tây phương, từ “sinodo” qui chiếu đến các cơ chế và các sự kiện mà theo thời gian đã mang những hình thức khác nhau, liên quan đến nhiều chủ thể. Trong sự đa dạng của chúng, tất cả các hình thức này đều có điểm chung là việc tập hợp lại với nhau để đối thoại, phân định và quyết định. Nhờ kinh nghiệm của những năm gần đây, ý nghĩa của các thuật ngữ này đã được hiểu rõ hơn và được trải nghiệm nhiều hơn. Chúng ngày càng gắn với mong muốn một Giáo hội gần gũi hơn với mọi người và có tính tương quan nhiều hơn, đó là ngôi nhà và gia đình của Thiên Chúa. Trong quá trình diễn ra Thượng hội đồng, một sự đồng thuận đã chín muồi về ý nghĩa của tính hiệp hành, vốn là nền tảng của Tài liệu này: tính hiệp hành là sự đồng hành của các Kitô hữu cùng với Chúa Kitô và hướng tới Vương quốc của Thiên Chúa, trong gắn kết với toàn thể nhân loại; được định hướng sứ mạng, nó bao gồm việc qui tụ với nhau từ các các cấp độ khác nhau của đời sống Giáo hội, lắng nghe lẫn nhau, đối thoại, cùng nhau phân định, hình thành sự đồng thuận như một cách diễn tả sự hiện diện của Chúa Kitô sống động trong Thánh Thần, và đạt tới một quyết định trong tinh thần đồng trách nhiệm có phân biệt. Theo chiều hướng này, chúng ta hiểu rõ hơn tại sao tính hiệp hành là một chiều kích cấu thành của Giáo hội (x. CTI, số 1). Nói một cách đơn giản và tổng hợp, có thể nói rằng tính hiệp hành là một con đường canh tân tâm linh và cải tổ cơ cấu để làm cho Giáo hội có tính tham gia và có tính sứ mạng nhiều hơn, nghĩa là làm cho Giáo hội có khả năng nhiều hơn trong việc bước đi với mọi người nam nữ, chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Kitô.
29. Nơi Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Kitô, Mẹ của Giáo hội và nhân loại, chúng ta thấy những đặc điểm của một Giáo hội hiệp hành, có tính sứ mạng thừa sai và đầy thương xót được tỏa sáng trọn vẹn. Quả thực, Mẹ là hình ảnh của Giáo hội lắng nghe, cầu nguyện, suy niệm, đối thoại, đồng hành, phân định, quyết định và hành động. Chúng ta học được từ nơi Mẹ nghệ thuật lắng nghe, sự chú tâm tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa, vâng phục Lời Ngài, khả năng nắm hiểu nhu cầu của người nghèo, lòng can đảm lên đường, tình yêu ân cần giúp đỡ, bài ca ngợi khen và niềm hân hoan trong Thánh Thần. Vì lý do này, thánh Phaolô VI khẳng định: “Hành động của Giáo hội trên thế giới này giống như sự mở rộng mối quan tâm của Đức Maria” (MC 28).
30. Một cách chi tiết hơn, tính hiệp hành chỉ rõ ba khía cạnh riêng biệt của đời sống Giáo hội:
a) trước hết, nó nói đến “phong cách đặc biệt đặc trưng cho đời sống và sứ mạng của Giáo hội, diễn tả bản chất của Giáo hội là đồng hành và là sự qui tụ cộng đoàn Dân Thiên Chúa được Chúa Giêsu triệu tập trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng. Nó phải được thể hiện trong cách sống và hoạt động thông thường của Giáo hội. Modus vivendi et operandi này được thực hiện thông qua cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể, qua tình huynh đệ hiệp thông, tính đồng trách nhiệm và sự tham gia của toàn thể Dân Thiên Chúa, ở các cấp độ khác nhau và trong sự phân biệt các thừa tác vụ và các vai trò khác nhau, trong đời sống và sứ mạng của mình” (CTI, số 70a);
b) thứ hai, “tính hiệp hành vì thế xác định – theo một nghĩa cụ thể và rõ ràng hơn từ quan điểm thần học và giáo luật – những cơ cấu và tiến trình trong Giáo hội trong đó bản chất hiệp hành của Giáo hội được thể hiện ở cấp độ cơ chế, theo một cách tương tự, trên nhiều bình diện thực hiện khác nhau: địa phương, khu vực, phổ quát. Những cơ cấu và tiến trình này phục vụ sự phân định có thẩm quyền của Giáo hội, được mời gọi nhận diện chiều hướng để theo bằng cách lắng nghe Chúa Thánh Thần” (CTI, n. 70b);
c) thứ ba, tính hiệp hành xác định “sự diễn ra đúng thời điểm của các sự kiện đồng nghị trong đó Giáo hội được triệu tập bởi cơ quan có thẩm quyền và theo các thủ tục cụ thể được ấn định bởi kỷ luật Giáo hội, liên quan đến những cách thức khác nhau, ở các cấp độ địa phương, khu vực và hoàn vũ, toàn thể Dân Thiên Chúa dưới sự chủ trì của các giám mục trong mối hiệp thông có tính tập đoàn và phẩm trật với Giám mục Rôma, để phân định nẻo đường của mình và các vấn đề cụ thể, cũng như để áp dụng các quyết định và các định hướng nhằm chu toàn sứ mạng của mình” (CTI, n . 70c).
31. Trong bối cảnh Giáo hội học của Công đồng về Dân Thiên Chúa, khái niệm hiệp thông diễn tả bản chất sâu xa của mầu nhiệm và sứ mạng Giáo hội, có nguồn gốc và chóp đỉnh nơi việc cử hành Thánh Thể, nghĩa là sự kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi và sự hiệp nhất giữa mọi người được thực hiện trong Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Với bối cảnh đó, tính hiệp hành “cho thấy cách sống và cách hoạt động đặc thù của Giáo hội là Dân Thiên Chúa, biểu lộ và hiện thực cụ thể căn tính hiệp thông của mình trong việc “đồng hành với nhau”, trong việc qui tụ thành cộng đoàn, và trong sự tham gia tích cực của tất cả các thành viên của mình vào sứ mạng loan báo Tin Mừng” (CTI, số 6).
32. Tính hiệp hành tự nó không phải là mục đích, nhưng nhắm đến sứ mạng mà Chúa Kitô ủy thác cho Giáo hội trong Thánh Thần. Loan báo Tin Mừng là “sứ mạng thiết yếu của Giáo hội […], đó là ân sủng và ơn gọi riêng của Giáo hội, là căn tính thâm sâu của Giáo hội” (EN 14). Bằng cách gần gũi với mọi người, không phân biệt ai, bằng việc rao giảng và giáo huấn, ban Phép Rửa, cử hành Thánh Thể và Bí tích Hòa giải, tất cả các Giáo hội địa phương và Giáo hội toàn thể đáp lại một cách cụ thể lệnh truyền của Chúa là loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc (x. Mt 28,19-20; Mc 16,15-16). Bằng cách trân trọng tất cả các đặc sủng và thừa tác vụ, tính hiệp hành cho phép Dân Thiên Chúa loan báo và làm chứng cho Tin Mừng cho những con người nam nữ ở mọi nơi và mọi thời, trở thành một “bí tích hữu hình” (LG 9) của tình huynh đệ và của sự hiệp nhất trong Chúa Kitô theo ý muốn của Thiên Chúa. Tính hiệp hành và sứ mạng có mối nối kết mật thiết với nhau: sứ mạng soi sáng cho tính hiệp hành và tính hiệp hành thúc đẩy sứ mạng.
33. Quyền bính của các mục tử “là một ân ban đặc biệt do Thánh Thần của Chúa Kitô là Đầu để xây dựng toàn Thân Thể” (CTI, n. 67). Ân ban này được liên kết với Bí tích Truyền chức, vốn làm cho những người lãnh nhận nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là Đầu, Mục tử và Tôi tớ, và đặt họ phục vụ Dân Thánh của Thiên Chúa để bảo vệ tính tông truyền của việc loan báo và thăng tiến sự hiệp thông trong Giáo hội ở mọi cấp độ. Tính hiệp hành cung cấp “cái khung diễn dịch phù hợp nhất để nhận hiểu chính thừa tác vụ có tính phẩm trật” (Đức Phanxicô, Diễn từ nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Thiết chế Thượng hội đồng Giám mục, 17 tháng 10 năm 2015) và đặt vào nhãn giới đúng đắn mệnh lệnh mà Chúa Kitô, trong Thánh Thần, ủy trao cho các mục tử. Do đó, nó mời gọi toàn thể Giáo hội, gồm cả những người thực thi quyền bính, phải hoán cải và đổi mới.
Hiệp Nhất Xét Như Hòa Hợp
34. «Con người, vốn có bản chất thiêng liêng, được viên mãn trong các mối tương quan liên vị. Càng sống các tương quan này cách chân thực, thì căn tính riêng của mỗi người càng chín muồi hơn. Người ta không trân trọng mình bằng cách cô lập chính mình, mà bằng cách đặt mình trong liên hệ với người khác và với Thiên Chúa. Tầm quan trọng của những tương quan ấy, vì thế, trở thành nền tảng” (CV 53). Một Giáo hội hiệp hành được đặc trưng như một không gian trong đó các mối tương quan có thể triển nở, nhờ tình yêu thương lẫn nhau vốn là điều răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ (x. Ga 13,34-35). Trong các nền văn hóa và các xã hội ngày càng in đậm tính cá nhân chủ nghĩa, thì Giáo hội, “một dân được quy tụ trong sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (LG 4), có thể làm chứng cho sức mạnh của các mối tương quan được đặt nền trên Thiên Chúa Ba Ngôi. Những khác biệt về ơn gọi, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, điều kiện và tầng lớp xã hội được thấy nơi mọi cộng đoàn Kitô hữu, sẽ cung ứng cho cuộc gặp gỡ tính khác biệt mới mẻ vốn thiết yếu cho sự trưởng thành cá nhân.
35. Trước hết, chính trong gia đình, mà Công đồng có thể gọi là “Giáo hội tại gia” (LG 11), mà người ta cảm nghiệm được sự phong phú của các mối tương quan giữa những con người hiệp nhất với nhau trong sự khác biệt về tính tình, giới tính, tuổi tác và vai trò. Vì lý do này, các gia đình là nơi ưu tiên để học hỏi và kinh nghiệm những thực hành thiết yếu của một Giáo hội hiệp hành. Bất chấp những rạn nứt và đau khổ phải trải qua, gia đình vẫn là nơi chúng ta học biết trao đổi món quà tình yêu, sự tin tưởng, tha thứ, hòa giải và cảm thông. Chính trong gia đình mà chúng ta học được rằng chúng ta có cùng một phẩm giá, chúng ta được dựng nên cho nhau, chúng ta cần được lắng nghe và chúng ta có khả năng để lắng nghe, để phân định và cùng nhau quyết định, để chấp nhận và thi hành một quyền bính được vận hành bởi bác ái, để cùng chịu trách nhiệm và để có trách nhiệm về hành động của mình. «Gia đình giúp làm cho con người có tính nhân văn thông qua mối tương quan “chúng ta”, và đồng thời thúc đẩy những khác biệt chính đáng của mỗi người” (Đức Phanxicô, Diễn từ với các Tham dự viên Hội nghị toàn thể của Học viện Giáo hoàng về các Khoa học Xã hội, ngày 29 tháng 4 năm 2022).
36. Tiến trình Thượng Hội đồng nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần không ngừng gợi lên trong Dân Thiên Chúa nhiều đặc sủng và tác vụ khác nhau. «Ngay cả trong việc xây dựng Thân Thể Chúa Kitô cũng có nhiều chi thể và chức năng đa dạng. Chỉ có một Thánh Thần duy nhất phân phát các ơn ban khác nhau của Ngài vì tiện ích của Giáo hội, tùy theo sự phong phú của Giáo hội và theo các nhu cầu về các thừa tác vụ (x. 1Cr 12,11)” (LG 7). Tương tự như vậy, đã xuất hiện sự thôi thúc mở rộng các khả năng tham gia và thực thi tính đồng trách nhiệm có phân biệt của tất cả những người đã lãnh Phép Rửa, nam cũng như nữ. Tuy nhiên, về phương diện này, có ghi nhận nỗi buồn do thiếu sự tham gia của nhiều thành viên Dân Thiên Chúa trong hành trình canh tân Giáo hội, và do sự khó khăn rất phổ biến trong việc sống trọn vẹn mối tương quan lành mạnh giữa nam và nữ, giữa các thế hệ, giữa các cá nhân và các nhóm có bản sắc văn hóa và điều kiện xã hội khác nhau, đặc biệt là người nghèo và những người bị loại trừ.
37. Hơn nữa, tiến trình Thượng Hội đồng đã nêu bật di sản tinh thần của các Giáo hội địa phương, chính tại nơi đó và từ nơi đó mà Giáo hội Công giáo hiện hữu, cũng như nêu bật sự cần thiết phải trình bày rõ ràng những kinh nghiệm của các Giáo hội ấy. Nhờ tính Công giáo, “các bộ phận riêng lẻ cung ứng ân ban của mình cho những bộ phận khác và cho toàn thể Giáo hội, để toàn thể và từng bộ phận nhận được lợi ích từ mối liên lạc với nhau của tất cả, và từ sự hiệp nhất trong nỗ lực hướng tới sự viên mãn” (LG 13). Thừa tác vụ của đấng kế vị thánh Phêrô “bảo đảm tính đa dạng chính đáng và đồng thời bảo đảm rằng tính địa phương không những không làm tổn hại sự hiệp nhất, mà đúng hơn nó phục vụ sự hiệp nhất” (ibid.; x. AG 22).
38. Toàn thể Giáo hội luôn là một tập hợp đa dạng các dân tộc và ngôn ngữ, các Giáo hội với các nghi thức, kỷ luật, di sản thần học và linh đạo riêng, với các ơn gọi, đặc sủng và các thừa tác vụ phục vụ cho thiện ích chung. Sự thống nhất của những đa dạng này đạt được nhờ Chúa Kitô, viên đá góc, và nhờ Chúa Thánh Thần, thầy dạy sự hòa hợp. Sự thống nhất trong đa dạng này được biểu đạt chính xác bởi tính Công giáo của Giáo hội. Một dấu hiệu của điều này là sự đa dạng của các Giáo hội tự trị (sui iuris), mà sự phong phú của các Giáo hội này đã được nhấn mạnh bởi tiến trình Thượng Hội đồng. Khóa Hội nghị này yêu cầu chúng ta tiếp tục đi theo con đường gặp gỡ, hiểu biết lẫn nhau và trao đổi những ân ban có sức nuôi dưỡng sự hiệp thông của một Giáo hội bao gồm các Giáo hội.
39. Việc canh tân có tính hiệp hành ủng hộ việc trân trọng các bối cảnh như những nơi trong đó lời mời gọi phổ quát của Thiên Chúa kêu gọi người ta tham gia vào đoàn Dân của Ngài, tham gia vào Vương quốc của Thiên Chúa vốn là “công lý, hòa bình và niềm vui trong Thánh Thần” (Rm 14,17), được trở thành hiện thực trong hiện tại. Bằng cách này, các nền văn hóa khác nhau có thể nắm được sự hiệp nhất ẩn trong tính đa dạng của chúng và mở ra cho triển vọng trao đổi các ân ban. “Sự hiệp nhất của Giáo hội không phải là sự đồng nhất, mà là sự hội nhập hữu cơ của những sự đa dạng chính đáng” (NMI 46). Sự đa dạng trong những cách diễn đạt thông điệp cứu độ sẽ giúp tránh giản lược nó thành một cách hiểu duy nhất về đời sống của Giáo hội và về các hình thức thần học, phụng vụ, mục vụ và kỷ luật mà trong đó thông điệp này được trình bày.
40. Việc đề cao các bối cảnh, các nền văn hóa và những sự đa dạng, cũng như các mối tương quan giữa chúng, là chìa khóa để phát triển trong tư cách một Giáo hội có tính hiệp hành và sứ mạng, và để bước đi, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, hướng tới sự hiệp nhất hữu hình của các Kitô hữu. Chúng tôi nhắc lại cam kết của Giáo hội Công giáo về việc tiếp tục và đẩy mạnh hành trình đại kết với các Kitô hữu khác, nhờ Phép Rửa chung của chúng ta và để đáp lại tiếng gọi cùng nhau sống sự hiệp thông và hiệp nhất giữa các môn đệ, như Chúa Kitô cầu nguyện cho họ tại Bữa Tiệc Ly (x. Ga 17,20-26). Khóa Hội nghị này vui mừng và biết ơn trước sự tiến triển của các mối quan hệ đại kết trong hơn 60 năm qua, các tài liệu đối thoại và các tuyên bố diễn tả đức tin chung. Sự tham gia của các Đại biểu anh em đã làm phong phú cho tiến trình của Hội nghị này, và chúng tôi hy vọng nhìn thấy những bước tiếp theo trên hành trình tiến tới sự hiệp thông trọn vẹn, nhờ việc đón nhận các hoa trái của con đường đại kết trong các thực hành của Giáo hội.
41. Khắp mọi nơi trên trái đất, các Kitô hữu sống cạnh những người chưa lãnh nhận Phép Rửa và phục vụ Thiên Chúa bằng cách thực hành một tôn giáo khác. Chúng ta long trọng cầu nguyện cho họ trong phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh, cùng với họ, chúng ta cộng tác và chiến đấu để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, và cùng với họ, chúng ta cầu xin Thiên Chúa duy nhất giải thoát thế giới khỏi những sự dữ đang gây nhiều thống khổ. Việc đối thoại, gặp gỡ và việc trao đổi các ân ban đặc trưng của một Giáo hội hiệp hành được mời gọi, để mở ra những mối tương quan với các truyền thống tôn giáo khác, nhằm mục đích “thiết lập tình thân hữu, hòa bình, hòa hợp, và chia sẻ các giá trị và các kinh nghiệm luân lý và linh đạo trong tinh thần thượng tôn sự thật và tình yêu.” (Hội đồng Giám mục Công giáo Ấn Độ, Câu trả lời của Giáo hội Ấn Độ trước những thách thức ngày nay, ngày 9 tháng 3 năm 2016, được trích dẫn trong FT 271). Ở một số vùng, các Kitô hữu dấn thân xây dựng các mối tương quan huynh đệ với các tín đồ thuộc các tôn giáo khác phải đối mặt với sự bách hại. Hội nghị này khuyến khích họ kiên trì dấn thân trong niềm hy vọng.
42. Sự đa dạng của các tôn giáo và văn hóa, sự đa dạng của các truyền thống thần học và linh đạo, sự đa dạng trong các ơn ban của Chúa Thánh Thần và các nhiệm vụ trong cộng đoàn, cũng như sự đa dạng về tuổi tác, giới tính và các mối gắn kết xã hội trong Giáo hội, đó là một lời mời gọi mỗi người nhận ra và thừa nhận góc nhìn bị điều kiện hóa của mình, từ bỏ việc đòi đặt mình vào trung tâm, và cởi mở tiếp nhận những nhãn quan khác. Mỗi người có một sự đóng góp riêng và không thể thiếu để hoàn thành công việc chung. Có thể dùng hình ảnh của một dàn nhạc để mô tả một Giáo hội hiệp hành: sự đa dạng của các loại nhạc cụ là cần thiết để làm sống động vẻ đẹp và sự hài hòa của bản nhạc, trong đó giọng hát của mỗi người vẫn giữ những đặc tính riêng của mình để phục vụ công cuộc chung. Đây là cách mà sự hòa hợp do Thánh Thần được thể hiện trong Giáo hội, Thánh Thần là chính Đấng hòa hợp (x. thánh Basil, Về Thánh Vịnh 29,1; Về Chúa Thánh Thần XVI, 38).
Linh Đạo Hiệp Hành
43. Tính hiệp hành trước hết là một tâm thế thiêng liêng thấm nhuần vào đời sống hằng ngày của những người đã lãnh Phép Rửa và vào mọi khía cạnh của sứ mạng Giáo hội. Một linh đạo hiệp hành phát sinh từ tác động của Chúa Thánh Thần và đòi hỏi việc lắng nghe Lời Chúa, sự chiêm niệm, thinh lặng và hoán cải tâm hồn. Như Đức thánh cha Phanxicô đã phát biểu trong diễn từ khai mạc Khóa họp thứ hai này, “Chúa Thánh Thần là vị dẫn đường chắc chắn, và nhiệm vụ trước hết của chúng ta là học cách phân biệt được tiếng nói của Ngài, bởi vì Ngài nói trong mọi người và trong mọi sự”. Linh đạo hiệp hành cũng đòi hỏi sự khổ hạnh, khiêm tốn, kiên nhẫn, sẵn sàng tha thứ và đón nhận sự tha thứ. Nó đón nhận với lòng biết ơn và khiêm tốn những ân ban và những nhiệm vụ khác nhau được Chúa Thánh Thần phân phối để phục vụ một Đức Chúa duy nhất (x. 1Cr 12,4-5). Nó làm như vậy mà không có tham vọng hay đố kỵ, cũng không ham muốn thống trị hay kiểm soát, trong khi vun trồng những tâm tư giống như Chúa Giêsu Kitô, Đấng “đã trút bỏ chính mình, mặc lấy thân phận tôi tớ” (Pl 2,7). Chúng ta nhận ra hoa trái của linh đạo hiệp hành khi đời sống hằng ngày của Giáo hội được in dấu hiệp nhất và hài hòa trong tính đa dạng. Không ai có thể một mình tiến bước trên con đường linh đạo đích thực. Chúng ta cần sự đồng hành và hỗ trợ, bao gồm cả việc đào tạo và linh hướng, trong tư cách cá nhân và cộng đoàn.
44. Việc canh tân cộng đoàn Kitô hữu chỉ có thể thực hiện được khi nhìn nhận tầm quan trọng hàng đầu của ân sủng. Nếu thiếu chiều sâu linh đạo cá nhân và cộng đoàn, tính hiệp hành sẽ bị giảm trừ thành một sách lược mang tính tổ chức. Chúng ta được kêu gọi không chỉ chuyển những thành quả của một kinh nghiệm tâm linh cá nhân thành các tiến trình của cộng đoàn, mà một cách sâu sắc hơn, còn để kinh nghiệm tại sao việc thực hành điều răn mới về yêu thương lẫn nhau lại là một nơi chốn và cách thức để gặp gỡ Thiên Chúa. Theo nghĩa này nhãn quan hiệp hành, trong khi dựa vào di sản tâm linh phong phú của Truyền thống, sẽ góp phần đổi mới các hình thức của nó: một lời cầu nguyện mở ra sự tham gia, một sự phân định được thực hiện cùng với nhau, một năng lực sứ mạng thừa sai có được từ việc chia sẻ và tỏa sáng trong sự phục vụ.
45. Đối thoại trong Thánh Thần là một công cụ, mặc dù có những hạn chế, nhưng nó rất hữu hiệu trong việc cho phép lắng nghe và phân định “những gì Thần Khí nói với các Giáo hội” (Kh 2,7). Việc thực hành nó khơi dậy niềm vui, sự ngạc nhiên và lòng biết ơn, và được kinh nghiệm như một con đường canh tân giúp biến đổi các cá nhân, các nhóm và chính Giáo hội. Từ “đối thoại” ở đây muốn nói một điều gì đó không chỉ là việc đối thoại đơn giản: nó đan kết một cách hài hòa tư tưởng và cảm xúc, và tạo ra một thế giới sống chung. Vì lý do này, có thể nói rằng sự hoán cải có tầm quyết định trong cuộc đối thoại. Đây là một dữ kiện nhân học được tìm thấy nơi các dân tộc và nền văn hóa khác nhau, được thống nhất bởi việc qui tụ lại trong tinh thần liên đới để thảo luận và quyết định những vấn đề sống còn cho cộng đồng. Ân sủng sẽ làm cho kinh nghiệm nhân bản này trở nên trọn vẹn: đối thoại “trong Thánh Thần” có nghĩa là sống kinh nghiệm chia sẻ trong ánh sáng đức tin, và trong việc tìm kiếm thánh ý của Thiên Chúa, trong một bầu khí Tin Mừng trong đó Chúa Thánh Thần có thể khiến tiếng nói không thể nhầm lẫn của Ngài được nghe thấy.
46. Ở mọi giai đoạn của tiến trình Thượng Hội đồng đều có âm vang nhu cầu chữa lành, hòa giải và xây dựng lại sự tin tưởng trong Giáo hội và trong xã hội, nhất là sau quá nhiều vụ bê bối liên quan đến các loại lạm dụng khác nhau. Giáo hội được mời gọi đặt vào trung tâm đời sống và hoạt động của mình sự thật rằng trong Chúa Kitô và qua Phép Rửa, chúng ta được trao phó cho nhau. Việc nhìn nhận sự thật thâm sâu được chuyển hóa thành một nghĩa vụ thánh thiêng giúp chúng ta nhìn nhận những sai lầm và xây dựng lại niềm tin tưởng. Bước đi trên nẻo đường này là một hành động công bằng và một sự dấn thân sứ mạng của Dân Chúa trong thế giới của chúng ta, và là một ân huệ từ trời mà chúng ta phải cầu xin. Khát vọng tiếp tục bước đi trên con đường này là hoa trái của cuộc canh tân có tính hiệp hành.
Tính Hiệp Hành Như Lời Ngôn Sứ Cho Xã Hội
47. Được thực hành với lòng khiêm tốn, phong cách hiệp hành có thể làm cho Giáo hội trở thành một tiếng nói ngôn sứ trong thế giới ngày nay. «Giáo hội hiệp hành giống như một tiêu chuẩn được nêu lên giữa các quốc gia (x. Is 11,12)” (Đức Phanxicô, Diễn từ nhân Kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng hội đồng Giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Chúng ta đang sống trong một thời đại được đánh dấu bởi những sự bất bình đẳng ngày càng lan rộng, bởi sự vỡ mộng ngày càng tăng đối với các mẫu thức quản trị truyền thống, bởi sự nản lòng đối với cách vận hành của nền dân chủ, bởi các xu hướng độc tài và toàn trị ngày càng gia tăng, bởi sự thống trị của mô hình thị trường không quan tâm gì đến tình trạng dễ bị tổn thương của con người và công trình tạo dựng, và bởi sự cám dỗ giải quyết các xung đột bằng vũ lực hơn là bằng đối thoại. Những thực hành chân thực của tính hiệp hành cho phép các Kitô hữu phát triển một nền văn hóa có khả năng đưa ra tiếng nói ngôn sứ phê phán tư tưởng thống trị, và qua đó cung ứng một sự đóng góp độc đáo vào việc tìm kiếm các câu trả lời cho nhiều thách thức mà các xã hội hiện nay phải đối mặt, và cho việc xây dựng thiện ích chung.
48. Cách thức hiệp hành để sống các mối tương quan là một chứng từ xã hội đáp ứng các nhu cầu (của con người) cần được tiếp đón và cần cảm thấy mình được nhìn nhận trong một cộng đồng cụ thể. Đó là một thách thức đối với sự cô lập ngày càng tăng của người ta cũng như đối với chủ nghĩa cá nhân về văn hóa, điều mà Giáo hội cũng thường hấp thu, và chứng từ xã hội này kêu gọi chúng ta quan tâm lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau và đồng trách nhiệm vì thiện ích chung. Tương tự như vậy, chứng từ này thách thức một chủ nghĩa tập thể xã hội quá mức làm người ta bị bóp nghẹt và không cho phép họ trở thành chủ thể của sự phát triển chính mình. Việc sẵn lòng lắng nghe mọi người, đặc biệt những người nghèo, hoàn toàn trái ngược với một thế giới trong đó sự tập trung quyền lực vứt bỏ người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, các nhóm thiểu số, và thí bỏ cả trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta. Cả tính hiệp hành và mối quan tâm sinh thái toàn diện đều có tầm nhìn về các mối tương quan và nhấn mạnh sự cần thiết phải chăm sóc các mối dây gắn kết: vì thế, chúng tương hợp và hội nhập với nhau trong phong cách sống sứ mạng của Giáo hội trong thế giới hôm nay.
PHẦN II – CÙNG NHAU TRÊN THUYỀN
Sự Hoán Cải Các Mối Tương Quan
Simon Phêrô, Tôma gọi là Điđimô, Nathanael người Cana xứ Galilê, các con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác cũng ở cùng nhau. Simon Phêrô nói với họ: “Tôi đi đánh cá đây.” Họ nói: “Chúng tôi cũng đi với anh” (Ga 21,2-3).
49. Hồ Tiberia là nơi mọi chuyện bắt đầu. Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan đã bỏ thuyền bỏ lưới mà đi theo Chúa Giêsu. Sau Phục sinh, cuộc lên đường trở lại cũng từ Biển Hồ đó. Trong đêm tối, có tiếng đối thoại vang lên trên bờ: “Tôi đi đánh cá đây”. “Chúng tôi cùng đi với anh.” Hành trình Thượng Hội đồng cũng bắt đầu như thế: chúng ta đã nghe lời mời của Đấng kế vị thánh Phêrô và chúng ta đã chấp nhận; chúng ta lên đường cùng với ngài và đi sau ngài. Chúng ta đã cùng nhau cầu nguyện, suy tư, làm việc miệt mài và đối thoại. Nhưng trên hết chúng ta đã kinh nghiệm rằng chính các mối tương quan nâng đỡ sức sống của Giáo hội, làm sinh động các cơ cấu của Giáo hội. Một Giáo hội có tính hiệp hành và sứ mạng cần đổi mới cả hai.
Những Mối Tương Quan Mới
50. Trong suốt hành trình của Thượng Hội đồng và ở mọi nơi, đã xuất hiện yêu cầu về một Giáo hội có khả năng nuôi dưỡng các mối tương quan tốt hơn: tương quan với Chúa, tương quan giữa nam và nữ, trong các gia đình, các cộng đoàn, giữa tất cả các Kitô hữu, giữa các nhóm xã hội, giữa các tôn giáo , với công trình tạo dựng. Nhiều người bày tỏ sự ngạc nhiên khi được hỏi và vui mừng khi có thể nói lên tiếng nói của mình trong cộng đoàn; cũng có những người chia sẻ nỗi đau vì cảm thấy bị loại trừ hay bị xét đoán cũng vì tình trạng hôn nhân của họ, vì căn tính và khuynh hướng tính dục của họ. Ước muốn có những mối tương quan chân thực và có ý nghĩa hơn không chỉ diễn tả khát vọng thuộc về một nhóm gắn kết, mà còn phù hợp với một nhận thức sâu xa về đức tin: phẩm chất Tin Mừng của các mối tương quan cộng đoàn là điều có tính quyết định cho chứng tá mà Dân Thiên Chúa được kêu gọi trình bày trong lịch sử. “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy bằng dấu này: đó là anh em yêu thương nhau” (Ga 13,35). Các mối tương quan được đổi mới nhờ ân sủng và lòng hiếu khách dành cho những người hèn mọn nhất theo lời dạy của Chúa Giêsu, đó là dấu chỉ hùng hồn nhất về hoạt động của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn các môn đệ. Do đó, để trở thành một Giáo hội hiệp hành, cần thiết phải có một sự hoán cải thực sự trong mối tương quan. Chúng ta phải học lại từ Tin Mừng rằng việc chăm sóc các mối tương quan không phải là một chiến lược hay công cụ để đạt hiệu quả cao hơn về mặt tổ chức, mà đúng hơn đó là cách Thiên Chúa Cha mạc khải chính Ngài trong Chúa Giêsu và trong Chúa Thánh Thần. Khi các mối tương quan của chúng ta, mặc dù mong manh, cho thấy ân sủng của Chúa Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần, thì đó là chúng ta tuyên xưng bằng đời sống của mình đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi.
51. Chính dựa vào Tin Mừng mà chúng ta phải phác họa bản đồ hoán cải cần thiết cho chúng ta, học cách biến thái độ của Chúa Giêsu thành thái độ của mình. Tin Mừng “cho thấy Người thường xuyên lắng nghe những ai Người gặp trên các nẻo đường ở Đất Thánh » (DTC 11). Dù đó là đàn ông hay đàn bà, người Do thái hay người ngoại giáo, các tiến sĩ luật hay những người thu thuế, người công chính hay người tội lỗi, những người ăn xin, người mù, người phong cùi hay các bệnh nhân, Chúa Giêsu không để ai đi mà trước hết không dừng lại để lắng nghe và đối thoại với họ. Người đã mặc khải khuôn mặt của Chúa Cha bằng cách gặp gỡ từng người với chính lịch sử và sự tự do của họ. Từ việc lắng nghe những nhu cầu và đức tin của những kẻ Người gặp, Người đã có những lời nói và cử chỉ có sức đổi mới cuộc sống của họ, mở đường cho những mối tương quan được chữa lành. Chúa Giêsu là Đấng Mêsia đã “làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được” (Mc 7,37). Người yêu cầu chúng ta, các môn đệ của Người, hãy cư xử theo cách tương tự, và Người ban cho chúng ta – với ân sủng của Chúa Thánh Thần – khả năng làm điều đó, bằng cách khuôn đúc trái tim chúng ta theo Người: chỉ có “trái tim mới có thể làm ra các mối gắn kết đích thực, bởi vì một mối tương quan không được xây dựng với trái tim thì sẽ không có sức vượt qua sự phân mảnh của chủ nghĩa cá nhân” (DN 17). Khi chúng ta lắng nghe anh chị em mình, chúng ta tham gia vào chính thái độ mà Thiên Chúa – trong Chúa Giêsu Kitô – đã đến gặp gỡ mọi người.
52. Nhu cầu hoán cải trong các mối tương quan chắc chắn liên quan đến những mối tương quan giữa nam và nữ. Động lực tương quan này đã được khắc ghi trong điều kiện con người của chúng ta. Sự khác biệt về giới tính thiết lập nền tảng của tương quan con người. «Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, chính theo hình ảnh Thiên Chúa mà Ngài đã tạo nên con người; Ngài tạo nên họ có nam có nữ” (St 1,27). Trong kế hoạch của Thiên Chúa, sự khác biệt nguyên thủy này không bao hàm sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Trong cuộc tạo dựng mới, điều này được đọc lại dưới ánh sáng của phẩm giá do Phép Rửa: «Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; vì tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,27-28). Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi đón nhận và tôn trọng sự khác biệt này – theo những cách thức và những bối cảnh khác nhau – bởi nó là một quà tặng của Thiên Chúa và là một nguồn sự sống. Chúng ta làm chứng cho Tin Mừng khi chúng ta cố gắng sống những mối tương quan tôn trọng phẩm giá bình đẳng và hỗ tương giữa nam và nữ. Trong tiến trình Thượng Hội đồng, những sự bày tỏ thường xuyên về đau khổ của phụ nữ từ mọi khu vực và mọi lục địa, cả giáo dân lẫn tu sĩ, cho thấy chúng ta thường không tôn trọng như nói trên.
Trong Sự Đa Dạng Của Các Bối Cảnh
53. Lời mời gọi đổi mới các mối tương quan trong Chúa Giêsu vang lên trong các bối cảnh khác nhau mà các môn đệ của Người đang sống và thi hành sứ mạng của Giáo hội. Mỗi bối cảnh này đều có những sự phong phú riêng cần được tính đến, gắn liền với tính đa nguyên của các nền văn hóa. Tuy nhiên, tất cả chúng, dù theo những cách khác nhau, đều mang những dấu hiệu của các lôgic tương quan bị bóp méo và đôi khi trái ngược với lôgic của Tin Mừng. Trong dòng lịch sử, những sự đóng kín tương quan đã tăng cường và trở thành những cơ cấu tội lỗi thực sự (x. SRS 36), ảnh hưởng đến cách người ta suy nghĩ và hành động. Đặc biệt, chúng tạo ra những bế tắc và những sợ hãi mà chúng ta cần phải đối mặt và vượt qua để bắt đầu con đường hoán cải tương quan.
54. Những sự dữ đang hành hạ thế giới chúng ta bắt nguồn từ loại động lực này, bắt đầu với các cuộc chiến tranh và các xung đột vũ trang, và từ ảo tưởng rằng có thể đạt được một nền hòa bình chân chính bằng sức mạnh của vũ khí. Nguy hiểm không kém là niềm tin rằng tất cả công trình tạo dựng, kể cả con người, đều có thể bị tùy ý khai thác để thu lợi nhuận. Hậu quả là có nhiều rào cản khác nhau chia rẽ con người, ngay cả trong các cộng đoàn Kitô hữu, và hạn chế khả năng của một số người so với khả năng của những người khác: những sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, nạn phân biệt chủng tộc, phân biệt giai cấp, phân biệt đối xử với người khuyết tật, sự chà đạp các quyền của các nhóm thiểu số thuộc mọi loại, và việc thiếu thiện chí tiếp đón người di cư. Ngay cả mối tương quan của chúng ta với trái đất, là người chị và mẹ của chúng ta (x. LS 1), cũng mang những dấu hiệu rạn nứt gây nguy hiểm cho sự sống của vô số cộng đồng, đặc biệt ở những khu vực bần cùng nhất, nếu không nói là gây nguy hiểm cho toàn thể các dân tộc và có lẽ cho toàn thể nhân loại. Sự đóng kín căn cốt nhất và bi kịch nhất là sự đóng kín đối với chính sự sống con người, dẫn đến việc loại bỏ trẻ em, ngay cả từ trong lòng mẹ, và loại bỏ người già.
55. Nhiều sự dữ đang hành hạ thế giới chúng ta cũng bộc lộ trong Giáo hội. Cơn khủng hoảng lạm dụng, với những biểu hiện đa dạng và bi thảm của nó, đã gây ra những đau khổ không thể kể xiết và thường kéo dài cho các nạn nhân và những người sống sót, và cho cộng đồng của họ. Giáo hội phải đặc biệt chú ý và nhạy cảm lắng nghe tiếng nói của các nạn nhân và những người sống sót từ các vụ lạm dụng tình dục, lạm dụng thiêng liêng, lạm dụng kinh tế, cơ chế, quyền lực, và lạm dụng lương tâm bởi các thành viên hàng giáo sĩ hay những người có chức vụ trong Giáo hội. Lắng nghe là yếu tố cơ bản trên con đường hướng tới sự chữa lành, sám hối, công lý và hòa giải. Trong một thời đại đang trải qua cuộc khủng hoảng tin tưởng trên toàn cầu và khuyến khích người ta sống trong sự kinh tởm và ngờ vực, Giáo hội phải nhìn nhận những khuyết điểm của mình, khiêm tốn cầu xin sự tha thứ, chăm sóc các nạn nhân, trang bị các công cụ phòng ngừa và cố gắng xây dựng lại niềm tin tưởng lẫn nhau trong Chúa.
56. Việc lắng nghe những người bị loại trừ và bị gạt ra ngoài lề xã hội sẽ củng cố nhận thức của Giáo hội rằng sứ mạng của mình bao gồm việc mang lấy gánh nặng của những mối tương quan bị tổn thương này để Chúa, Đấng Hằng Sống, sẽ chữa lành cho họ. Chỉ bằng cách này Giáo hội mới có thể “nên như bí tích, tức là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” (LG 1). Đồng thời, sự cởi mở với thế giới cho phép chúng ta khám phá ra rằng ở mọi nơi trên hành tinh, trong mọi nền văn hóa và mọi nhóm người, Chúa Thánh Thần đã gieo vãi những hạt giống của Tin Mừng. Các hạt giống ấy sinh hoa quả theo khả năng sống các mối tương quan lành mạnh, vun đắp sự tin tưởng và tha thứ lẫn nhau, vượt qua nỗi sợ hãi sự khác biệt và tạo ra những cộng đồng thân thiện, thúc đẩy một nền kinh tế quan tâm đến con người và hành tinh, hòa giải khi có xung đột. Lịch sử trao cho chúng ta một di sản là các cuộc xung đột được thúc đẩy cũng dưới danh nghĩa tôn giáo, làm suy yếu uy tín của chính các tôn giáo. Một nguồn của đau khổ là tai tiếng về sự chia rẽ giữa các mối hiệp thông Kitô hữu, sự thù địch giữa anh chị em đã lãnh nhận cùng một Phép Rửa . Kinh nghiệm mới mẻ về động lực đại kết vốn đi kèm với con đường hiệp hành, một trong những dấu hiệu của sự hoán cải tương quan, mở ra cho ta niềm hy vọng.
Các Đặc Sủng, Các Ơn Gọi Và Các Tác Vụ Phục Vụ Cho Sứ Mạng
57. Các Kitô hữu, cá nhân hay trong đoàn thể, được mời gọi làm cho các ơn ban của Chúa Thánh Thần sinh hoa trái nhằm làm chứng và loan báo Tin Mừng. «Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí; có nhiều sứ vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa; có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa, Đấng thực hiện mọi sự nơi mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách là vì lợi ích chung” (1Cr 12,4-7). Trong cộng đoàn Kitô hữu, tất cả những người đã lãnh Phép Rửa đều có nhiều ân huệ để chia sẻ, mỗi người tùy theo ơn gọi và điều kiện sống riêng của mình. Trên thực tế, các ơn gọi khác nhau trong Giáo hội là những cách diễn tả đa dạng và rõ ràng về lời mời gọi duy nhất do Phép Rửa, đó là lời mời gọi nên thánh và thi hành sứ mạng. Sự đa dạng của các đặc sủng, bắt nguồn từ sự tự do của Chúa Thánh Thần, nhằm phục vụ cho sự hiệp nhất của Giáo hội là Thân Mình Chúa Kitô (x. LG 32), và phục vụ cho sứ mạng ở những nơi chốn và các nền văn hóa khác nhau (x. LG 12). Những ơn ban này không phải là tài sản độc quyền của những người đón nhận và sử dụng chúng, cũng không thể là lý do để đòi truy nhận cho mình hay cho nhóm mình. Họ được mời gọi đóng góp cả cho đời sống của cộng đoàn Kitô hữu, bao gồm cả việc chăm sóc thích đáng về mục vụ ơn gọi, lẫn cho sự phát triển xã hội trong nhiều chiều kích của nó.
58. Mỗi người đã lãnh Phép Rửa đáp ứng các nhu cầu của sứ mạng trong bối cảnh mà họ sống và làm việc, bắt đầu từ những khuynh hướng và khả năng của chính mình, qua đó thể hiện sự tự do của Chúa Thánh Thần trong việc ban tặng các ân huệ cho người ta. Chính nhờ sự năng động này trong Thánh Thần mà Dân Thiên Chúa, trong khi lắng nghe thực tế trong đó mình đang sống, có thể khám phá ra những lĩnh vực dấn thân mới và những cách thức mới để chu toàn sứ mạng của mình. Các Kitô hữu, với nhiều khả năng khác nhau – trong gia đình và trong các bậc sống khác, tại nơi làm việc và trong các nghề nghiệp, trong sự dấn thân dân sự hoặc chính trị, xã hội hoặc sinh thái, trong việc phát triển một nền văn hóa nhận cảm hứng từ Tin Mừng cũng như trong việc Phúc Âm hóa nền văn hóa của môi trường kỹ thuật số – họ đi lại trên các nẻo đường của thế giới và loan báo Tin Mừng trong môi trường sống của mình, được hỗ trợ bởi các ân ban của Chúa Thánh Thần.
59. Họ yêu cầu Giáo hội đừng bỏ rơi họ, nhưng muốn cảm thấy mình được sai đi và được nâng đỡ. Họ yêu cầu được nuôi dưỡng bằng lương thực Lời Chúa và Thánh Thể, cũng như bằng các mối dây huynh đệ của cộng đoàn. Họ yêu cầu rằng sự dấn thân của họ phải được nhìn nhận vì chính bản chất của nó: đó là hành động của Giáo hội dựa theo Tin Mừng, chứ không phải một lựa chọn riêng tư. Cuối cùng, họ yêu cầu cộng đoàn đồng hành với những người, qua chứng tá của họ, đã được Tin Mừng thu hút. Trong một Giáo hội có tính hiệp hành và sứ mạng, dưới sự hướng dẫn của các mục tử, các cộng đoàn sẽ có thể sai đi và hỗ trợ những người mình đã sai đi. Do đó, họ sẽ nhận thức chính mình chủ yếu là người phục vụ cho sứ mạng mà các tín hữu đảm nhận trong xã hội, trong gia đình và trong đời sống làm việc, mà không tập trung duy chỉ vào các hoạt động diễn ra bên trong họ và vào các nhu cầu có tính cơ chế của họ.
60. Qua Phép Rửa, những con người nam nữ có cùng phẩm giá bình đẳng trong Dân Thiên Chúa. Tuy nhiên, phụ nữ vẫn tiếp tục gặp những trở ngại trong việc đạt được sự nhìn nhận đầy đủ hơn về các đặc sủng, ơn gọi và vị trí của họ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống Giáo hội, đến mức gây tổn hại cho việc phục vụ của họ đối với sứ mạng chung. Kinh Thánh chứng thực cho vai trò nổi bật của nhiều phụ nữ trong lịch sử cứu độ. Lời loan báo đầu tiên về sự Phục Sinh được giao phó cho Maria Macđala, một phụ nữ; vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã hiện diện trong Căn Gác Thượng, cùng với nhiều phụ nữ khác đã từng đi theo Chúa. Thật quan trọng việc các đoạn Kinh Thánh liên quan phải tìm được chỗ xứng đáng trong các bài đọc phụng vụ. Một số thời điểm quan trọng trong lịch sử Giáo hội xác nhận sự đóng góp thiết yếu của các phụ nữ được Thánh Thần thúc đẩy. Phụ nữ chiếm đa số trong số những người đến nhà thờ và thường là những chứng nhân đầu tiên của đức tin trong các gia đình. Họ rất tích cực trong đời sống của các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ và trong các giáo xứ; họ điều hành các trường học, bệnh viện và các trung tâm đón tiếp; họ dẫn dắt các sáng kiến hòa giải và việc thăng tiến phẩm giá con người cũng như công bằng xã hội. Phụ nữ đóng góp vào việc nghiên cứu thần học và hiện diện ở các vị trí trách nhiệm trong các tổ chức gắn kết với Giáo hội, trong bộ máy điều hành giáo phận và trong Giáo triều Rôma. Có những phụ nữ nắm giữ vai trò quyền lực hay đứng đầu các cộng đồng. Khóa Hội nghị này kêu gọi việc khai triển đầy đủ tất cả các cơ hội đã được pháp chế hiện hành quy định liên quan đến vai trò của phụ nữ, đặc biệt ở những nơi mà các cơ hội này vẫn chưa được mở ra. Không có lý do nào ngăn cản các phụ nữ đảm nhận vai trò lãnh đạo trong Giáo hội: những gì đến từ Chúa Thánh Thần thì không thể bị ngăn cản. Vấn đề về khả năng tiếp cận thừa tác vụ phó tế của phụ nữ cũng vẫn còn bỏ ngỏ. Chúng ta cần tiếp tục phân định về vấn đề này. Hội nghị này cũng mời gọi chúng ta chú ý nhiều hơn đến ngôn ngữ và các hình ảnh dùng trong việc giảng thuyết, dạy học, huấn giáo, và trong việc soạn thảo các văn kiện chính thức của Giáo hội, dành nhiều chỗ hơn cho sự đóng góp của các phụ nữ thánh thiện, các nhà thần học và các nhà thần bí.
61. Bên trong cộng đoàn Kitô hữu, phải đặc biệt chú ý đến trẻ em: các em không chỉ cần được đồng hành trong hành trình lớn lên, mà các em còn có nhiều điều để cống hiến cho cộng đoàn tín hữu. Khi các tông đồ thảo luận với nhau ai là người lớn nhất, Chúa Giêsu đặt một em nhỏ vào giữa họ, giới thiệu em như tiêu chuẩn để vào Nước Trời (x. Mc 9,33-37). Giáo hội không thể có tính hiệp hành nếu không có sự đóng góp của trẻ em, là những nhà thừa sai tiềm năng cần phải được trân trọng. Tiếng nói của các em rất cần cho cộng đoàn: chúng ta phải lắng nghe tiếng nói ấy và quan tâm để bảo đảm rằng mọi người trong xã hội đều lắng nghe tiếng nói ấy, đặc biệt là những người có trách nhiệm về chính trị và về giáo dục. Một xã hội không biết đón nhận và chăm sóc trẻ em là một xã hội bệnh hoạn; sự khốn khổ mà nhiều trẻ em phải gánh chịu do chiến tranh, nghèo đói và bị bỏ rơi, do lạm dụng và do nạn buôn người là một tai tiếng đòi ta phải có can đảm để tố cáo và phải dấn thân liên đới.
62. Giới trẻ cũng có phần để đóng góp vào việc canh tân Giáo hội theo tính hiệp hành. Họ đặc biệt nhạy cảm với các giá trị của tình huynh đệ và sự chia sẻ, trong khi tẩy chay thái độ gia trưởng và độc tài. Đôi khi thái độ của họ đối với Giáo hội được thấy như thái độ chỉ trích, nhưng thường nó mang hình thức tích cực của một sự dấn thân cá nhân đối với một cộng đoàn cởi mở tiếp đón, cam kết đấu tranh chống lại bất công xã hội và chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta. Lời yêu cầu “đồng hành trong đời sống hằng ngày”, được đưa ra bởi các bạn trẻ trong Thượng Hội đồng dành cho họ vào năm 2018, hoàn toàn phù hợp với chân trời của một Giáo hội hiệp hành. Vì thế, thật thiết yếu phải bảo đảm cho các bạn trẻ có được sự đồng hành đầy quan tâm và kiên nhẫn; đặc biệt, thật đáng trân trọng lời đề nghị được nêu ra nhờ sự đóng góp của họ, về “một kinh nghiệm đồng hành nhắm mục đích phân định”, bao gồm đời sống huynh đệ được chia sẻ với các nhà giáo dục dày dạn, một sự dấn thân tông đồ được đảm nhận cùng nhau để phục vụ những người khốn khổ nhất; một đề xuất linh đạo cắm rễ trong việc cầu nguyện và đời sống bí tích (x. Tài liệu Chung kết của Hội nghị Thượng Hội đồng Giám mục thường kỳ lần thứ XV, “Giới trẻ, Đức tin và Phân định Ơn gọi”, 161).
63. Trong việc thúc đẩy tinh thần đồng trách nhiệm đối với sứ mạng của tất cả những người đã lãnh Phép Rửa, chúng ta nhìn nhận các khả năng tông đồ của những người khuyết tật, là những người cảm thấy được kêu gọi và sai đi như những chủ thể tích cực của việc loan báo Tin Mừng. Chúng ta muốn đề cao sự đóng góp đến từ gia tài to lớn của nhân loại mà họ mang theo mình. Chúng ta nhìn nhận những kinh nghiệm của họ về sự đau khổ, về tình trạng bị gạt ra bên lề, bị phân biệt đối xử, đôi khi phải chịu đựng ngay cả trong chính cộng đoàn Kitô hữu, do thái độ thương xót có tính trịch thượng cha chú. Để khích lệ sự tham gia của họ vào đời sống và sứ mạng Giáo hội, việc thành lập trong Giáo hội một cơ quan Quan sát Khuyết tật đã được đề xuất.
64. Trong số các ơn gọi làm cho Giáo hội nên phong phú, nổi bật lên ơn gọi của các đôi vợ chồng. Công đồng Vatican II dạy rằng “trong bậc sống và trong vị thế của mình, họ sở hữu ân sủng của riêng mình giữa Dân Thiên Chúa” (LG 11). Bí tích Hôn nhân trao cho người ta một sứ mạng riêng, liên quan cùng một trật đến đời sống gia đình, việc xây dựng Giáo hội, và sự dấn thân cho xã hội. Đặc biệt, trong những năm gần đây, có một ý thức ngày càng tăng rằng các gia đình là chủ thể chứ không chỉ là đối tượng tiếp nhận sự chăm sóc mục vụ gia đình. Vì lý do này, họ cần gặp gỡ và kết nối, cũng nhờ sự giúp đỡ của các thiết chế Giáo hội chuyên lo việc giáo dục thiếu nhi và giới trẻ. Một lần nữa, Hội nghị này bày tỏ sự gần gũi và hỗ trợ đối với những người sống một mình như một lựa chọn trung thành với Truyền thống và Huấn quyền của Giáo hội về các vấn đề hôn nhân và đạo đức tính dục, trong đó họ nhận thấy một nguồn sức sống.
65. Qua các thế kỷ, các ân ban thiêng liêng cũng đã làm nảy sinh nhiều cách diễn tả khác nhau của đời sống thánh hiến. Ngay từ đầu, Giáo hội đã nhìn nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống của những người nam nữ đã chọn bước theo Chúa Kitô trên con đường của các lời khuyên Phúc âm, tận hiến bản thân để phục vụ Thiên Chúa cả trong chiêm niệm lẫn trong nhiều hình thức phục vụ khác nhau. Đời sống thánh hiến được kêu gọi chất vấn Giáo hội và xã hội bằng tiếng nói ngôn sứ của mình. Trong kinh nghiệm từ bao thế kỷ của mình, các gia đình tu trì đã phát triển những thực hành rõ ràng về đời sống hiệp hành và về việc phân định của cộng đoàn, học cách hòa hợp các ân ban cá nhân và sứ mạng chung. Các Dòng và Tu hội, các Hiệp hội Đời sống Tông đồ, các Tu hội Đời, cũng như các Hiệp hội, Phong trào và các Cộng đoàn Mới có sự đóng góp đặc biệt cho sự phát triển tính hiệp hành trong Giáo hội. Ngày nay, nhiều cộng đoàn đời sống thánh hiến là một phòng thí nghiệm về tính liên văn hóa, làm nên một lời ngôn sứ cho Giáo hội và cho thế giới. Đồng thời, tính hiệp hành mời gọi – và đôi khi thách thức – các mục tử của các Giáo hội địa phương, cũng như những vị hữu trách về đời sống thánh hiến và các tổ chức Giáo hội hãy củng cố các mối tương quan nhằm dẫn tới việc trao đổi các ân ban để phục vụ sứ mạng chung.
66. Sứ mạng liên quan đến mọi người đã lãnh Phép Rửa. Nhiệm vụ đầu tiên của người giáo dân nam nữ là làm cho thấm nhuần và biến đổi các thực tại trần thế bằng tinh thần Tin Mừng (x. LG 31.33; AA 5-7). Theo ý của Đức thánh cha Phanxicô (x. Tông thư dưới hình thức Tự sắc Spiritus Domini, ngày 10 tháng 1 năm 2021), tiến trình Thượng Hội đồng kêu gọi các Giáo hội địa phương đáp ứng một cách sáng tạo và can đảm trước các nhu cầu của sứ mạng. Sự đáp ứng này cần gắn với việc phân định giữa các đặc sủng khác nhau để nhận diện đặc sủng nào nên mang hình thức thừa tác vụ và do đó được trang bị các tiêu chí, công cụ và thủ tục phù hợp. Không phải tất cả các đặc sủng đều phải được coi là thừa tác vụ, cũng như không phải tất cả những người đã lãnh Phép Rửa đều phải trở thành thừa tác viên, và cũng không phải tất cả các thừa tác vụ đều phải được chính thức thiết lập. Để một đặc sủng được định hình như một thừa tác vụ, cộng đoàn cần phải xác định nhu cầu mục vụ thực sự. Việc này cần được đi kèm bởi một sự phân định do vị mục tử, cùng với cộng đoàn ngài sẽ quyết định liệu có cần lập ra một thừa tác vụ mới hay không. Kết quả của tiến trình này là cơ quan có thẩm quyền sẽ đưa ra quyết định. Một Giáo hội có tính hiệp hành và sứ mạng sẽ khích lệ nhiều hơn nữa các hình thức tác vụ của giáo dân, nghĩa là các tác vụ không đòi hỏi bí tích Truyền chức, và điều này không chỉ liên quan đến khung cảnh phụng vụ. Các tác vụ có thể được hoặc không được chính thức thiết lập. Cũng cần suy nghĩ thêm về cách hữu hiệu nhất để trao thừa tác vụ cho giáo dân trong một thời đại mà người ta di chuyển từ nơi này đến nơi khác ngày càng dễ dàng hơn, xác định rõ thời gian và khu vực thi hành tác vụ của họ.
67. Trong số nhiều hoạt động phục vụ của Giáo hội được Hội nghị này nhìn nhận là sự đóng góp cho sự hiểu biết đức tin và sự phân định mà thần học đưa ra trong nhiều cách diễn tả khác nhau của nó. Các nhà thần học giúp Dân Thiên Chúa phát triển sự hiểu biết về thực tại được soi sáng bởi mặc khải, và mở ra những câu trả lời phù hợp và ngôn ngữ thích đáng cho sứ mạng. Trong Giáo hội có tính hiệp hành và sứ mạng, “đặc sủng thần học được mời gọi đảm nhận một công việc phục vụ cụ thể […]. Cùng với kinh nghiệm đức tin và việc chiêm ngưỡng chân lý của các tín hữu và cùng với lời rao giảng của các mục tử, nó góp phần làm cho Tin Mừng ngày càng thấm sâu hơn nữa. Ngoài ra, “như với bất kỳ ơn gọi Kitô giáo nào khác, sứ vụ của nhà thần học, ngoài tính chất cá nhân, còn mang tính cộng đoàn và tập thể” (CTI, số 75). Sứ vụ này mang tính cộng đoàn và tập thể cách riêng khi nó được thực thi dưới hình thức giảng dạy vốn được ủy trao theo pháp chế trong các học viện của Giáo hội. “Tính hiệp hành của Giáo hội, vì thế, đòi hỏi các nhà thần học làm thần học theo cách thức hiệp hành, thúc đẩy nơi họ khả năng lắng nghe, đối thoại, phân định và tích hợp tính đa dạng của các yêu cầu và các đóng góp khác nhau” (ibid.). Theo tầm nhìn này, thật khẩn thiết việc thúc đẩy đối thoại giữa các mục tử và những người dấn thân nghiên cứu thần học theo các hình thức thiết chế phù hợp. Hội nghị này mời gọi các cơ chế thần học tiếp tục nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ và đào sâu ý nghĩa của tính hiệp hành và việc đào tạo có tính đồng hành tại các Giáo hội địa phương.
Các Thừa Tác Vụ Chức Thánh Để Phục Vụ Cho Sự Hòa Hợp
68. Giống như mọi thừa tác vụ trong Giáo hội, giám mục, linh mục và phó tế phục vụ cho việc loan báo Tin Mừng và xây dựng cộng đoàn Giáo hội. Công đồng Vatican II nhắc lại rằng thừa tác vụ chức thánh do Chúa thiết lập “được thực thi theo những cấp bậc khác nhau bởi những người mà ngay từ xa xưa được gọi là giám mục, linh mục, phó tế” (LG 28). Trong bối cảnh này, Công đồng Vatican II đã khẳng định tính bí tích của chức giám mục (x. LG 21), đã khôi phục tính hiệp thông của chức linh mục (x. LG 28) và mở đường cho việc lập lại việc thực thi vĩnh viễn chức phó tế trong Giáo hội Latinh. (x. LG 29).
Thừa tác vụ của Giám Mục: hội nhập các ân ban của Chúa Thánh Thần trong sự hiệp nhất
69. Nhiệm vụ của giám mục là chủ trì một cộng đoàn Giáo hội địa phương, như một nguyên lý hữu hình của sự hiệp nhất trong đó, và là mối dây hiệp thông với tất cả các Giáo hội. Khẳng định của Công đồng rằng “sự viên mãn của Bí tích Truyền chức được trao ban bởi sự thánh hiến giám mục” (LG 21) cho phép chúng ta hiểu căn tính của giám mục trong nhãn giới các mối liên hệ bí tích với Chúa Kitô và với “phần xác định này của Dân Thiên Chúa» (CD 11). Vị giám mục được kêu gọi phục vụ phần xác định này của Dân Thiên Chúa vốn được giao phó cho ngài, nhân danh Chúa Kitô, vị Mục Tử Tốt Lành. Người được tấn phong giám mục không mang vác những đặc quyền và những nhiệm vụ mà ngài phải hành xử một mình. Đúng hơn, ngài nhận được ân sủng và nhiệm vụ nhận biết, phân định và hợp nhất các ân ban mà Thánh Thần tuôn đổ trên các cá nhân và các cộng đoàn, ngài làm việc với các linh mục và các phó tế theo một cách thế phản ánh mối liên kết bí tích chung; họ đồng trách nhiệm với ngài về việc phục vụ có tính thừa tác vụ trong Giáo hội địa phương. Khi làm thế, vị giám mục nhận ra điều gì là cụ thể và chuyên biệt nhất đối với sứ mạng của mình trong bối cảnh quan tâm đến sự hiệp thông của các Giáo hội.
70. Việc phục vụ của giám mục là việc phục vụ trong, với và vì cộng đoàn (x. LG 20). Nó được thi hành qua việc rao giảng Lời Chúa, việc chủ tọa cử hành Thánh Thể và các bí tích khác. Vì thế, Hội nghị Thượng Hội đồng ước mong Dân Thiên Chúa sẽ có tiếng nói lớn hơn trong việc lựa chọn các giám mục. Thượng Hội đồng cũng khuyến nghị rằng việc tấn phong giám mục nên diễn ra tại giáo phận nơi ngài được bổ nhiệm làm mục tử chứ không phải ở giáo phận gốc như thường diễn ra. Thượng Hội đồng cũng khuyến nghị rằng vị chủ phong phải được chọn trong số các giám mục của giáo tỉnh ấy, kể cả Tổng giáo phận nếu có thể. Như thế sẽ rõ ràng hơn rằng người trở thành giám mục sẽ thiết lập một mối liên kết với Giáo hội mà mình được bổ nhiệm, công khai cam kết đảm nhận sứ vụ của mình trước Giáo hội ấy. Cũng quan trọng không kém, nhất là trong các chuyến viếng thăm mục vụ, vị giám mục có thể dành thời gian với các tín hữu để lắng nghe họ, như một phần trong việc phân định của ngài về các nhu cầu thực tế. Điều này cũng sẽ giúp các tín hữu kinh nghiệm Giáo hội như gia đình của Thiên Chúa. Trong trường hợp của các giám mục hiệu tòa hiện nay, mối tương quan thiết chế giữa giám mục với Giáo hội địa phương không được thấy đủ rõ ràng, chẳng hạn như trường hợp các vị Đại diện Giáo hoàng, các vị phục vụ trong Giáo triều Rôma, và các giám mục phụ tá. Thật đáng tiếp tục suy nghĩ về vấn đề này.
71. Các giám mục cũng cần được đồng hành và hỗ trợ trong sứ vụ của mình. Vị tổng giám mục có thể đóng một vai trò trong việc thúc đẩy tình huynh đệ giữa các giám mục của các giáo phận lân cận. Trong tiến trình Thượng Hội đồng, đã thấy bộc lộ nhu cầu cung cấp các khóa thường huấn cho các giám mục, kể cả trong khung cảnh địa phương. Cũng nổi lên nhu cầu phải làm rõ vai trò của các giám mục phụ tá và mở rộng các nhiệm vụ mà giám mục có thể ủy quyền. Kinh nghiệm của các giám mục danh dự (hưu trí) về cách thức mới để các ngài phục vụ Dân Thiên Chúa cũng phải được quan tâm. Thật quan trọng việc giúp các tín hữu tránh những kỳ vọng quá mức và phi thực tế đối với giám mục, khi nhớ rằng ngài cũng là một người anh em mỏng giòn, dễ bị cám dỗ và cần được giúp đỡ như bao người khác. Một hình ảnh lý tưởng hóa về sứ vụ của giám mục, vốn là một sứ vụ tế nhị và nhạy cảm, sẽ làm cho việc thi hành sứ vụ ấy trở nên khó khăn hơn. Mặt khác, sứ vụ của giám mục sẽ được hỗ trợ mạnh mẽ khi nó được nâng đỡ bởi sự tham gia tích cực của toàn Dân Thiên Chúa trong một Giáo hội thực sự có tính hiệp hành.
Cùng với giám mục: Các linh mục và phó tế
72. Trong một Giáo hội hiệp hành, các linh mục được kêu gọi thi hành việc phục vụ của mình trong thái độ gần gũi với dân chúng, nồng nhiệt tiếp đón và sẵn sàng lắng nghe mọi người, cởi mở theo phong cách hiệp hành. Các linh mục “cùng với giám mục của mình làm nên một linh mục đoàn duy nhất” (LG 28) và cộng tác với ngài trong việc phân định các đặc sủng cũng như trong việc đồng hành và hướng dẫn Giáo hội địa phương, đặc biệt chú ý đến việc bảo vệ sự hiệp nhất. Họ được mời gọi sống tình liên đới với các linh mục anh em và cộng tác trong việc đáp ứng mục vụ cho dân chúng. Các linh mục thuộc các dòng tu giúp làm phong phú cho linh mục đoàn với tính độc đáo nơi đặc sủng của mình. Họ, cũng như các linh mục đến từ các Giáo hội Đông phương tự trị (sui iuris), dù độc thân hay kết hôn, các linh mục fidei donum, và các vị đến từ các quốc gia khác, sẽ giúp hàng giáo sĩ địa phương cởi mở ra cho tầm nhìn về một Giáo hội toàn thể. Phần mình, các linh mục sở tại giúp các giáo sĩ từ nơi khác đến hòa mình vào lịch sử của một giáo phận cụ thể, với những truyền thống và sự phong phú thiêng liêng của giáo phận đó. Bằng cách này, hàng linh mục cũng kinh nghiệm một cuộc trao đổi đích thực các ân ban để phục vụ cho sứ mạng của Giáo hội. Các linh mục cũng cần được đồng hành và hỗ trợ, đặc biệt trong những giai đoạn đầu của sứ vụ cũng như trong những lúc yếu đuối và mong manh.
73. Là tôi tớ phục vụ mầu nhiệm của Thiên Chúa và Giáo hội (x. LG 41), các phó tế được truyền chức “không phải cho chức linh mục, nhưng cho sứ vụ phục vụ” (LG 29). Họ thi hành sứ vụ này trong việc phục vụ bác ái, trong việc loan báo và trong phụng vụ. Qua đó họ làm hiện thực mối liên hệ giữa Tin Mừng và một đời sống yêu thương, trong mọi bối cảnh Giáo hội và xã hội của mình. Họ cũng thúc đẩy trong toàn thể Giáo hội một ý thức phục vụ và một phong cách đặc biệt phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khổ nhất. Như Truyền thống cho thấy – qua lời nguyện truyền chức và qua thực hành mục vụ – các chức năng của phó tế rất đa dạng. Các phó tế đáp ứng các nhu cầu cụ thể của Giáo hội địa phương, đặc biệt là đánh thức và duy trì sự lưu tâm của mọi người đối với những người nghèo nhất, trong một Giáo hội hiệp hành có tính sứ mạng thừa sai và đầy lòng thương xót. Sứ vụ của các phó tế vẫn chưa được nhiều Kitô hữu biết đến, một phần bởi vì – mặc dù đã được Vatican II khôi phục trong Giáo hội La tinh như một cấp trật phân biệt và vĩnh viễn (x. LG 29) – nó vẫn chưa được tiếp nhận ở mọi nơi trên thế giới. Giáo huấn của Công đồng sẽ cần phải được khảo sát sâu hơn, đặc biệt trong ánh sáng của việc duyệt lại kinh nghiệm thực tế về chức phó tế. Giáo huấn này đã cung cấp các lý do chính đáng cho các Giáo hội địa phương không trì hoãn việc thúc đẩy chức phó tế vĩnh viễn cách rộng rãi hơn, nhìn nhận trong sứ vụ này một nguồn quý giá giúp cho sự trưởng thành của một Giáo hội phục vụ, theo gương Chúa Giêsu, Đấng đã trở thành tôi tớ của mọi người. Nhận thức sâu xa hơn này cũng có thể giúp hiểu rõ hơn ý nghĩa của việc truyền chức phó tế cho những người sẽ trở thành linh mục.
Sự cộng tác giữa các thừa tác viên chức thánh trong một Giáo hội hiệp hành
74. Nhiều lần, trong tiến trình Thượng Hội đồng, lòng biết ơn đã được bày tỏ đối với các giám mục, linh mục và phó tế vì niềm vui, sự dấn thân và sự tận tâm khi các vị thi hành việc phục vụ của mình. Bên cạnh đó, cũng thường có những đề cập về các khó khăn thực tế mà các mục tử gặp phải trong sứ vụ của mình. Những khó khăn này chủ yếu liên quan đến một cảm giác cô lập và cô đơn, cũng như việc cảm thấy bị choáng ngợp trước sự kỳ vọng đòi các vị phải đáp ứng mọi nhu cầu. Kinh nghiệm của Thượng Hội đồng có thể là một câu trả lời cho thực tế này, giúp các giám mục, linh mục và phó tế khám phá lại tính đồng trách nhiệm trong việc thực thi sứ vụ, vốn cũng bao gồm việc cộng tác với các thành viên khác của Dân Thiên Chúa. Một sự phân phối rộng rãi hơn các nhiệm vụ và các trách nhiệm, và một sự phân định dũng cảm hơn về những gì thuộc riêng sứ vụ chức thánh và những gì có thể và phải được ủy thác cho người khác, sẽ giúp cho mỗi sứ vụ được thi hành một cách lành mạnh hơn về mặt thiêng liêng và năng động hơn về mặt mục vụ. Quan điểm này chắc chắn sẽ có một hiệu ứng trên các tiến trình đưa ra quyết định, làm cho chúng có một đặc tính hiệp hành rõ hơn. Nó cũng sẽ giúp vượt qua xu hướng giáo sĩ trị, được hiểu như việc sử dụng quyền lực cho lợi ích riêng mình và bóp méo quyền bính của Giáo hội là quyền bính nhắm để phục vụ Dân Thiên Chúa. Giáo sĩ trị bộc lộ trước hết trong các hình thức lạm dụng bởi các thừa tác viên của Giáo hội – dù đó là lạm dụng tình dục hay kinh tế, lạm dụng lương tâm và lạm dụng quyền lực. “Chủ nghĩa giáo sĩ trị, dù được thúc đẩy bởi chính các linh mục hay bởi những người giáo dân, tạo ra sự phân hóa trong cơ thể Giáo hội, hỗ trợ duy trì nhiều tội ác mà chúng ta đang lên án ngày nay” (Đức Phanxicô, Thư gửi dân Chúa, ngày 20 tháng 8 năm 2018).
Cùng Nhau Vì Sứ Mạng
75. Để đáp ứng các nhu cầu của cộng đoàn và của sứ mạng, trong suốt lịch sử của mình, Giáo hội đã có các thừa tác vụ khác bên cạnh các thừa tác vụ chức thánh. Các đặc sủng mang hình thức thừa tác vụ khi chúng được công khai nhìn nhận bởi cộng đoàn và bởi những người có trách nhiệm lãnh đạo cộng đoàn. Theo cách này, chúng được đặt nhằm phục vụ cho sứ mạng một cách ổn định và nhất quán. Một cách chuyên biệt hơn, một số thừa tác vụ nhắm phục vụ cộng đoàn Kitô hữu. Đặc biệt quan trọng là các thừa tác vụ được chính thức thiết lập. Những tác vụ này được giám mục trao ban một lần cho cả đời, qua một nghi thức riêng, sau khi có sự phân định và đào tạo thích hợp đối với các ứng viên. Những tác vụ này không thể bị giản lược thành một bài sai hay sự phân công nhiệm vụ đơn giản. Việc trao thừa tác vụ là một á bí tích sẽ hình thành con người và xác lập cách họ tham gia vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội. Trong Giáo hội La tinh, điều này liên quan đến các thừa tác vụ Đọc sách và Giúp lễ (x. Đức Phanxicô, Tông thư dưới hình thức “Tự sắc” Spiritus Domini, ngày 10 tháng 1 năm 2021), và thừa tác vụ Giáo lý viên (x. Đức Phanxicô, Tông thư dưới hình thức “Tự sắc” Antiquum Ministryium, 10 tháng 5 năm 2021). Một thẩm quyền hợp pháp sẽ thiết lập các điều khoản qui định chính thức cho việc thực hành các tác vụ này. Các Hội đồng Giám mục thiết lập các điều kiện cá nhân mà các ứng viên cho các tác vụ này phải đáp ứng, và vạch ra các lộ trình đào tạo phải theo để tiếp cận các tác vụ này.
76. Các thừa tác vụ được thiết lập chính thức được bổ sung bởi các tác vụ không được thiết lập theo nghi thức, nhưng được thi hành một cách ổn định theo sự cắt đặt của cơ quan có thẩm quyền. Một số ví dụ của các tác vụ này bao gồm tác vụ điều phối một cộng đoàn Giáo hội nhỏ, hướng dẫn việc cầu nguyện của cộng đoàn, tổ chức các hoạt động bác ái, vân vân… Những tác vụ này có rất nhiều cách thể hiện, tùy vào các đặc điểm của cộng đoàn địa phương. Một ví dụ về điều này là các giáo lý viên luôn phụ trách các cộng đoàn không có linh mục ở nhiều vùng thuộc Châu Phi. Mặc dù không có nghi thức được quy định, việc công khai ủy nhiệm qua một bài sai nên được làm trước cộng đoàn, để thúc đẩy sự nhìn nhận hiệu năng của nó. Ngoài ra còn có các thừa tác vụ ngoại thường, bao gồm tác vụ ngoại thường cho rước lễ, việc chủ tọa phụng vụ ngày Chúa nhật khi không có linh mục, việc trao ban một số á bí tích, và những trường hợp khác. Giáo luật của các Giáo hội La tinh và Đông phương đã quy định rằng trong một số trường hợp, tín hữu giáo dân, nam hay nữ, cũng có thể là thừa tác viên ngoại thường của Bí tích Phép Rửa. Trong Giáo luật La tinh, giám mục (với sự cho phép của Tòa thánh) có thể ủy quyền chứng hôn cho giáo dân, nam hay nữ. Dựa trên nhu cầu của các bối cảnh địa phương, cần xem xét khả năng mở rộng và ổn định những cơ hội thực thi các thừa tác vụ của giáo dân. Cuối cùng, có những việc phục vụ tự phát, không cần thêm điều kiện hay sự nhìn nhận minh nhiên. Chúng cho thấy rằng tất cả các tín hữu, bằng nhiều cách khác nhau, đều tham gia vào sứ mạng thông qua các ân ban và các đặc sủng của mình.
77. Các tín hữu giáo dân, nam cũng như nữ, cần được tạo cơ hội tham gia nhiều hơn, cũng như cần khám phá các hình thức phục vụ và các sứ vụ mới nhằm đáp ứng các nhu cầu mục vụ của thời đại chúng ta, trong tinh thần cộng tác và đồng trách nhiệm có phân biệt. Đặc biệt, một số nhu cầu cụ thể đã được ghi nhận từ tiến trình Thượng Hội đồng. Những nhu cầu này cần được đáp ứng theo các bối cảnh khác nhau:
a) về việc tham gia rộng rãi hơn của giáo dân nam nữ vào các tiến trình phân định của Giáo hội và vào tất cả các giai đoạn của tiến trình đưa ra quyết định (phác thảo, đưa ra và củng cố các quyết định);
b) về việc tiếp cận nhiều hơn của giáo dân nam nữ vào các vị trí trách nhiệm trong các giáo phận và các tổ chức Giáo hội, bao gồm các chủng viện, các học viện và các phân khoa thần học, phù hợp với các quy định hiện hành;
c) về việc thừa nhận và sự hỗ trợ nhiều hơn đối với đời sống và các đặc sủng của những người thánh hiến nam nữ cũng như việc sử dụng họ trong các vị trí có trách nhiệm trong Giáo hội;
d) về việc gia tăng con số giáo dân nam nữ có trình độ để phục vụ với tư cách thẩm phán trong tất cả các tiến trình giáo luật;
e) về việc thực sự nhìn nhận phẩm giá và tôn trọng các quyền của những nhân viên làm việc trong Giáo hội và trong các tổ chức của Giáo hội.
78. Tiến trình Thượng Hội đồng đã nhắc lại nhận thức rằng việc lắng nghe là một phần thiết yếu trong mọi khía cạnh của đời sống Giáo hội: trong việc cử hành các bí tích, đặc biệt là Bí tích Hòa giải, việc dạy giáo lý, việc đào tạo và đồng hành mục vụ. Trong ánh sáng này, Hội nghị cũng chú ý đến đề nghị về việc thiết lập một tác vụ Lắng nghe và Đồng hành, cho thấy có nhiều góc nhìn khác nhau. Một số người tán thành đề nghị ấy, vì một tác vụ như thế sẽ là một cách thức có tính ngôn sứ để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lắng nghe và đồng hành trong cộng đoàn. Những người khác cho rằng lắng nghe và đồng hành là nhiệm vụ của mọi người đã lãnh Phép Rửa, nên không cần có một tác vụ chuyên biệt nào. Và có những người khác nhấn mạnh sự cần thiết phải nghiên cứu sâu hơn, chẳng hạn về mối tương quan của tác vụ lắng nghe và đồng hành này với việc đồng hành thiêng liêng, việc tư vấn mục vụ và việc cử hành Bí tích Hòa giải. Cũng có đề nghị rằng một ‘tác vụ lắng nghe và đồng hành’ nên nhắm cách riêng mục đích tiếp đón những người ở bên lề cộng đoàn Giáo hội, những người trở về sau khi trôi lạc, và những người đang tìm kiếm sự thật và mong muốn được giúp đỡ để gặp Chúa. Do đó, cần phải tiếp tục phân định về vấn đề này. Các bối cảnh địa phương nơi nhu cầu này được cảm nhận rõ nhất có thể thử xem xét các cách thức khả thi để đặt cơ sở cho việc phân định.
PHẦN III – THẢ LƯỚI
Sự Chuyển Đổi Các Tiến Trình
Đức Giêsu nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không.” Người bảo các ông: “Hãy thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. (Ga 21,5-6).
79. Việc đánh cá không mang lại kết quả và bây giờ đã đến lúc phải quay trở lại bờ. Tuy nhiên, một giọng nói vang lên, với giọng điệu đầy thẩm quyền, mời gọi các môn đệ làm một điều mà chỉ mình họ thì rất có thể đã không làm, chỉ ra một khả năng mà mắt và tâm trí họ không thể nắm hiểu được: “Hãy thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì sẽ bắt được cá.” Trong suốt hành trình Thượng Hội đồng này, chúng ta đã tìm cách lắng nghe Tiếng Nói này và đón nhận nó. Trong cầu nguyện và đối thoại, chúng ta đã nhận ra rằng sự phân định của Giáo hội, sự quan tâm đến các tiến trình đưa ra quyết định, sự dấn thân chịu trách nhiệm và sự đánh giá các quyết định của chúng ta là những thực hành mà qua đó chúng ta đáp lại Lời hướng chỉ cho chúng ta những nẻo đường sứ mạng.
80. Ba thực hành này đan kết chặt chẽ với nhau. Các tiến trình đưa ra quyết định cần sự phân định của Giáo hội, đòi hỏi việc lắng nghe trong một bầu khí tin tưởng được hỗ trợ bởi sự minh bạch và tinh thần trách nhiệm. Sự tin tưởng phải là của cả hai bên: những người ra quyết định cần có khả năng tin tưởng và lắng nghe Dân Thiên Chúa. Phần mình, Dân Thiên Chúa cần có khả năng tin tưởng những người có thẩm quyền. Tầm nhìn toàn diện này nhấn mạnh rằng mỗi thực hành này đều phụ thuộc và hỗ trợ những thực hành khác, qua đó phục vụ cho khả năng hoàn thành sứ mạng của Giáo hội. Sự đào tạo là cần thiết để tham gia vào các tiến trình đưa ra quyết định dựa trên sự phân định của Giáo hội và phản ánh một văn hóa minh bạch, có trách nhiệm và có lượng giá. Sự đào tạo cần thiết này không chỉ có tính kỹ thuật; nó cũng cần khám phá các nền tảng thần học, Kinh Thánh và linh đạo. Mọi người đã lãnh Phép Rửa đều cần sự đào tạo này trong chứng tá, trong sứ mạng, trong sự thánh thiện và việc phục vụ, với sự nhấn mạnh tinh thần đồng trách nhiệm. Sự đào tạo này sẽ mang những dạng thức đặc biệt đối với những người ở các vai trò hữu trách hoặc phục vụ trong việc phân định của Giáo hội.
Sự Phân Định Của Giáo Hội Cho Sứ Mạng
81. Để thúc đẩy các mối tương quan có khả năng nâng đỡ và định hướng sứ mạng của Giáo hội, cần phải ưu tiên thực thi sự khôn ngoan của Tin Mừng vốn đã cho phép cộng đoàn Tông đồ ở Giêrusalem đóng dấu kết quả của sự kiện công đồng đầu tiên bằng những lời sau: “Vì Chúa Thánh Thần và chúng tôi đã thấy điều đó là tốt” (Cv 15,28). Đây là sự phân định mà bởi vì Dân Thiên Chúa làm theo định hướng sứ mạng, nên có thể được coi là “của Giáo hội”. Thánh Thần mà Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Giêsu và là Đấng dạy mọi điều (x. Ga 14,26) sẽ dẫn dắt các tín hữu trong mọi thời đại “đến với sự thật trọn vẹn” (Ga 16,13). Nhờ sự hiện diện và hoạt động không ngừng của Chúa Thánh Thần, “truyền thống xuất phát từ các Tông đồ luôn tiến triển trong Giáo hội” (DV 8). Kêu xin ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Dân Thiên Chúa, những người tham dự vào chức năng ngôn sứ của Chúa Kitô (x. LG 12), sẽ “làm việc để phân định các dấu chỉ đích thực về sự hiện diện và mục đích của Thiên Chúa trong các biến cố, các nhu cầu và các khát vọng mà họ chia sẻ với phần còn lại của nhân loại ngày nay” (GS 11). Sự phân định này dựa trên tất cả các ân ban khôn ngoan mà Chúa ban cho Giáo hội, và dựa trên cảm thức đức tin được ban cho tất cả những người đã lãnh Phép Rửa bởi Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần, đời sống của một Giáo hội có tính hiệp hành và sứ mạng phải được hình dung lại và định hướng lại.
82. Sự phân định của Giáo hội không phải là một kỹ thuật tổ chức mà là một thực hành thiêng liêng dựa trên một đức tin sống động. Nó đòi hỏi sự tự do nội tâm, sự khiêm nhường, cầu nguyện, sự tin tưởng lẫn nhau, sự cởi mở với điều mới mẻ và sự qui phục thánh ý Thiên Chúa. Nó không bao giờ chỉ là việc đưa ra quan điểm của cá nhân hay của nhóm, cũng không phải là việc cộng gộp các ý kiến cá nhân khác nhau. Mỗi người, khi lên tiếng theo lương tâm của mình, được kêu gọi mở lòng mình với người khác, là những người cũng chia sẻ theo lương tâm của họ. Trong sự chia sẻ này, họ tìm cách cùng nhau nhận ra “điều mà Thần Khí đang nói với các Hội thánh” (Khải huyền 2,7). Vì việc phân định này đòi hỏi sự đóng góp của mọi người, nên sự phân định của Giáo hội vừa là điều kiện vừa là sự diễn tả ưu tiên của tính hiệp hành, trong đó sự hiệp thông, sứ mạng và sự tham gia được sống. Càng nhiều người được lắng nghe, sự phân định càng có tầm vóc hơn. Vì thế, thật thiết yếu việc chúng ta phải thúc đẩy sự tham gia rộng rãi nhất có thể trong tiến trình phân định, nhất là sự tham gia của những người ở bên lề cộng đoàn Kitô hữu và xã hội.
83. Việc lắng nghe Lời Chúa là khởi điểm và là tiêu chuẩn cho toàn thể việc phân định của Giáo hội. Kinh Thánh làm chứng rằng Thiên Chúa đã nói với Dân Ngài đến mức trao cho chúng ta sự viên mãn của tất cả Mặc khải trong Chúa Giêsu (DV 2). Kinh Thánh chỉ ra những nơi chúng ta có thể nghe được tiếng của Chúa. Trước hết, Thiên Chúa nói với chúng ta trong phụng vụ, vì chính Chúa Kitô lên tiếng “khi Sách Thánh được đọc trong Giáo hội” (SC 7). Thiên Chúa nói qua Truyền thống sống động của Giáo hội, qua Huấn quyền, qua việc suy niệm cá nhân và cộng đoàn dựa trên Kinh Thánh, và qua các thực hành đạo đức bình dân. Thiên Chúa tiếp tục biểu lộ chính Ngài qua tiếng kêu của những người bị bần cùng hóa và qua các biến cố của lịch sử nhân loại. Thiên Chúa cũng nói với dân Ngài qua các yếu tố của vũ trụ, mà chính sự tồn tại của chúng hướng chỉ hành động của Đấng Tạo hóa và chứa tràn đầy sự hiện diện của Thần Khí trao ban sự sống. Cuối cùng, Thiên Chúa cũng nói qua lương tâm cá nhân của mỗi người, đó là “trung tâm và cung thánh thân mật nhất của một con người, nơi mà họ ở một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Thiên Chúa âm vang trong họ” (GS 16). Sự phân định của Giáo hội đòi hỏi việc không ngừng chăm sóc và đào tạo lương tâm, cũng như sự chín muồi của cảm thức đức tin, để không bỏ qua bất kỳ nơi nào mà Thiên Chúa lên tiếng và có mặt để gặp gỡ Dân Ngài.
84. Các bước phân định của Giáo hội sẽ khác nhau tùy thuộc vào các nơi chốn và các truyền thống khác nhau. Dựa trên kinh nghiệm của Thượng Hội đồng, chúng ta đã nhận diện các yếu tố của sự phân định cần được bao gồm:
a) nêu rõ mục tiêu phân định và phổ biến thông tin cũng như các phương tiện để nhận hiểu đúng về mục tiêu đó;
b) dành đủ thời gian để chuẩn bị trong thái độ cầu nguyện, để lắng nghe Lời Chúa và suy tư về vấn đề;
c) có thái độ tự do bên trong liên quan đến những lợi ích riêng, cả cá nhân và nhóm, và sự sẵn sàng theo đuổi thiện ích chung;
d) dành thời gian để lắng nghe với sự chú tâm và tôn trọng tiếng nói của mỗi người;
e) tìm kiếm sự đồng thuận rộng rãi nhất có thể, thường bộc lộ khi “lòng chúng ta bừng cháy” (x. Lc 24,32), mà không che giấu những xung khắc hoặc tìm kiếm mẫu số chung thấp nhất;
f) những người điều phối tiến trình sẽ diễn đạt sự đồng thuận theo cách sao cho những người tham gia có thể góp tiếng trong đó, dù họ có nhìn nhận mình trong đó hay không.
Ngay cả khi các ý kiến cá nhân không được chấp nhận, tiến trình phân định vẫn phải dẫn đến một sự chấp nhận chín chắn của mọi người về quyết định. Tiến trình này cũng phải dành thời gian cho sự đón nhận của cộng đoàn, từ đó sẽ dẫn đến việc xem xét và đánh giá thêm.
85. Sự phân định luôn diễn ra trong một bối cảnh cụ thể, những tính phức tạp và những đặc thù của bối cảnh đó phải được nắm bắt một cách đầy đủ nhất. Để sự phân định thực sự mang tính ‘Giáo hội’, nó phải sử dụng các phương tiện thích hợp. Những phương tiện này bao gồm sự chú giải Kinh Thánh xác đáng, để giúp giải thích và nhận hiểu các bản văn Kinh Thánh trong khi tránh các giải thích thiên vị hoặc hiểu theo nghĩa đen; một sự hiểu biết về các Giáo phụ, về Truyền Thống và giáo huấn của Huấn Quyền, theo các mức độ thẩm quyền khác nhau của các nguồn ấy; những sự đóng góp của các ngành thần học khác nhau; và những đóng góp của các khoa học nhân văn, lịch sử, xã hội và quản trị. Nếu không có những sự đóng góp vừa kể, chúng ta không thể nắm hiểu được bối cảnh trong đó sự phân định diễn ra, và không có một hướng đích cho việc phân định.
86. Về việc phân định, Giáo hội có nhiều cách tiếp cận đa dạng và nhiều phương pháp được thiết lập rất tốt. Sự đa dạng này là một ân ban vì nó cho phép thích nghi với các bối cảnh khác nhau và chứng tỏ là có hiệu quả. Luôn hướng đến sứ mạng chung, chúng ta nên đưa những cách tiếp cận khác nhau này vào cuộc đối thoại, bảo đảm rằng không đánh mất đặc tính riêng của nó, cũng không trở nên cứng nhắc trong cách tiến hành. Thật thiết yêu việc cung cấp các cơ hội đào tạo để lan tỏa và nuôi dưỡng một nền văn hóa phân định của Giáo hội tập trung vào sứ mạng tại các Giáo hội địa phương, cũng như trong các cộng đoàn Giáo hội nhỏ và các giáo xứ. Việc đào tạo này đặc biệt cần thiết đối với những người giữ vai trò lãnh đạo. Điều quan trọng không kém là khuyến khích việc đào tạo những người điều phối, sự đóng góp của họ thường rất quan trọng cho tiến trình phân định.
Cấu Trúc Của Tiến Trình Đưa Ra Quyết Định
87. Trong Giáo hội hiệp hành, “toàn thể cộng đoàn, trong sự đa dạng tự do và phong phú của các thành viên, được kêu gọi cùng nhau cầu nguyện, lắng nghe, phân tích, đối thoại, phân định và bày tỏ ý kiến về việc đưa ra các quyết định mục vụ” (ITC số 68) để phục vụ cho sứ mạng. Cách để thúc đẩy một Giáo hội hiệp hành là cổ võ sự tham gia lớn hơn của toàn Dân Thiên Chúa vào các tiến trình đưa ra quyết định. Nếu quả đúng là cách sống và hoạt động của Giáo hội có tính hiệp hành, thì thực hành này thật thiết yếu đối với sứ mạng của Giáo hội, đòi hỏi việc phân định, việc đạt sự đồng thuận, và việc ra quyết định thông qua sự sử dụng các cấu trúc và các thiết chế khác nhau của tính hiệp hành.
88. Cộng đoàn các môn đệ được Chúa kêu gọi, thiết lập và sai đi thì không hề đồng nhất cũng không vô định hình. Đó là Thân thể của Chúa bao gồm các thành viên đa dạng, một cộng đoàn với một lịch sử trong đó Triều đại Thiên Chúa hiện diện như một “hạt giống và sự bắt đầu”, phục vụ cho sự xuất hiện của Người giữa toàn thể gia đình nhân loại. Các Giáo phụ suy tư về bản chất cộng đồng của sứ mạng Dân Chúa với ba nguyên tắc “không gì mà không có”: “không gì mà không có giám mục” (thánh Inhaxiô thành Antiokia, Thư gửi các tín hữu ở Tralles 2,2), “không gì mà không có hội đồng linh mục, và không gì mà không có sự đồng thuận của dân chúng” (thánh Cyprianô thành Carthage, Thư 14,4). Khi lôgic “không gì mà không có” này bị bỏ qua, thì căn tính của Giáo hội bị lu mờ, và sứ mạng của Giáo hội sẽ bế tắc.
89. Một qui chuẩn Giáo hội học sẽ định hình việc dấn thân thúc đẩy sự tham gia dựa trên tính đồng trách nhiệm có phân biệt. Mỗi thành viên của cộng đoàn phải được tôn trọng, với giá trị được đặt vào các ân ban và các khả năng của họ chiếu theo mục tiêu đưa ra quyết định chung. Cần có các sắp xếp thể chế ít nhiều tinh vi để tạo điều kiện cho tiến trình này, tùy theo tầm vóc của cộng đoàn. Luật hiện hành đã quy định về các cơ quan tham gia như vậy ở nhiều cấp độ khác nhau. Những điều này sẽ được đề cập sau trong tài liệu.
90. Thật thích đáng việc suy ngẫm về các tiến trình đưa ra quyết định để bảo đảm chúng vận hành có hiệu năng. Một cách đặc trưng, các tiến trình này bao gồm một giai đoạn khảo sát và chuẩn bị “thông qua việc cùng nhau tiến hành việc phân định, tham vấn và hợp tác” (ITC số 69), việc này sẽ thông tin và đặt cơ sở cho việc đưa ra quyết định sau đó của cơ quan có thẩm quyền. Không có sự cạnh tranh hoặc xung đột nhau giữa hai yếu tố của tiến trình; đúng hơn, cả hai đều góp phần bảo đảm rằng các quyết định được đưa ra là kết quả của sự vâng phục của mọi người đối với những gì Thiên Chúa muốn cho Giáo hội của Ngài. Vì lý do này, cần khuyến khích các qui trình tạo ra sự hỗ tương giữa hội đồng và người chủ tọa hợp lệ trong một bầu khí cởi mở với Chúa Thánh Thần và tin tưởng lẫn nhau để tìm kiếm một sự đồng thuận rất có thể là hoàn toàn nhất trí. Khi đã đạt được quyết định, cần có một quá trình thực hiện và đánh giá trong đó nhiều người tham gia khác nhau một lần nữa cùng liên can vào, nhưng theo những cách mới.
91. Trong một số trường hợp, những người có thẩm quyền có nghĩa vụ theo luật hiện hành phải tiến hành tham vấn trước khi đưa ra quyết định. Những người có thẩm quyền mục vụ có bổn phận phải lắng nghe những người tham gia cuộc thỉnh ý và không được hành động như thể cuộc thỉnh ý chưa hề diễn ra. Vì thế, những người có thẩm quyền sẽ không phớt lờ những kết quả tham vấn đã đạt được một sự đồng thuận nếu không có lý do đủ thuyết phục được giải thích một cách xác đáng (x. CIC, điều 127, § 2, 2°; CCEO điều 934, § 2, 3°). Như trong bất kỳ cộng đồng nào thượng tôn công lý, việc thực thi quyền bính trong Giáo hội không cốt ở sự áp đặt ý chí một cách tùy tiện. Đúng hơn, quyền bính luôn phải được thực thi để phục vụ cho sự hiệp thông và sự đón nhận Chúa Kitô, Đấng là sự thật mà theo đó Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta trong những thời khắc và bối cảnh khác nhau (x. Ga 14,16).
92. Trong một Giáo hội hiệp hành, quyền bính của giám mục, của Tập đoàn Giám mục, và của Giám mục Rôma liên quan đến việc đưa ra quyết định là quyền bất khả xâm phạm vì nó đặt nền trên cơ cấu phẩm trật của Giáo hội do Chúa Kitô thiết lập; nó vừa phục vụ cho sự hiệp nhất vừa phục vụ cho sự đa dạng hợp pháp (x. 13). Tuy nhiên, việc thực thi quyền bính như thế không phải là không có giới hạn: nó không được bỏ qua một định hướng hiện lộ lên thông qua sự phân định đúng đắn trong một quá trình tham vấn, đặc biệt nếu điều này được tiến hành bởi các cơ quan có tính tham gia. Thật không thích hợp việc đặt các yếu tố tham vấn và thảo luận gắn với việc đạt tới quyết định ở thế đối lập với nhau: trong Giáo hội, yếu tố thảo luận đạt được với sự trợ giúp của tất cả mọi người, và bao giờ cũng có những người mà việc quản trị mục vụ của họ cho phép họ đưa ra quyết định dựa trên chức vụ của mình. Vì lý do này, công thức lặp lại trong Bộ Giáo luật, “biểu quyết chỉ có giá trị tham vấn” (tantum consultivum), cần được xem xét lại để loại bỏ khả năng mơ hồ. Do đó, có vẻ thích hợp việc tiến hành tu chỉnh Bộ Giáo luật theo một nhãn giới hiệp hành, làm rõ sự phân biệt và sự liên hệ giữa tham vấn và cứu xét, và làm sáng tỏ trách nhiệm của những người đóng các vai trò khác nhau trong tiến trình đưa ra quyết định.
93. Điều có tầm quan trọng nền tảng, để cho các tiến trình ra quyết định được hình dung ở đây mang lại kết quả, thì chúng phải được tiến hành theo cách có qui trình, và những người liên quan phải đảm nhận trách nhiệm của mình:
a) đặc biệt, thẩm quyền liên quan phải: xác định rõ ràng mục đích của các yếu tố tham vấn và thảo luận, cũng như làm rõ ai là người có trách nhiệm cuối cùng đối với việc đưa ra quyết định. Cần nhận diện những người cần được tham vấn, bao gồm những người có năng lực cụ thể hay những người nhận ảnh hưởng bởi vấn đề đang được xem xét. Cũng cần bảo đảm rằng mọi người liên hệ đều có quyền tiếp cận các dữ liệu có liên quan để họ có thể đóng góp một cách có cơ sở vào tiến trình này;
b) những người được tham vấn, dù là cá nhân hay với tư cách thành viên của một tập thể, đều có trách nhiệm: cung cấp dữ liệu của mình một cách trung thực, chân thành, với lương tâm sáng suốt và hành động theo lương tâm trong sáng, tôn trọng tính bảo mật của thông tin nhận được, đưa ra những suy nghĩ được trình bày rõ ràng cho thấy những điểm chính của mình. Điều này sẽ cho phép thẩm quyền mục vụ giải thích cách họ đã cứu xét việc tham vấn nếu quyết định cuối cùng được đưa ra có thể khác với các ý kiến được trình bày;
c) cuối cùng, khi thẩm quyền hợp pháp đã nêu ra quyết định, sau khi tôn trọng quá trình tham vấn và nêu rõ các lý do, xét vì mối dây hiệp thông gắn kết họ, tất cả những người đã lãnh Phép Rửa cần phải tôn trọng và thực thi quyết định ấy. Họ nên làm thế ngay cả khi quyết định ấy khác với ý kiến riêng của mình, nhưng họ cũng nên được tự do tham gia một cách trung thực vào giai đoạn đánh giá. Luôn có khả năng thượng cầu đến thẩm quyền cao hơn theo quy định của luật.
94. Việc thực hiện các tiến trình đưa ra quyết định một cách chính xác và dứt khoát, và theo phong cách hiệp hành, sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của Dân Thiên Chúa theo chiều hướng tham gia, đặc biệt là bằng cách sử dụng các phương tiện có tính thiết chế được quy định trong Giáo Luật, nhất là các cơ quan có tính tham gia. Nếu không có những thay đổi cụ thể trong ngắn hạn, tầm nhìn về một Giáo hội hiệp hành sẽ không đáng tin cậy, và điều này sẽ làm nản lòng những thành viên của Dân Thiên Chúa đã rút ra sức mạnh và hy vọng từ hành trình Thượng hội đồng. Các Giáo hội địa phương cần tìm cách thực hiện những thay đổi này.
Minh Bạch, Trách Nhiệm Và Đánh Giá
95. Việc đưa ra quyết định không kết thúc tiến trình phân định. Nó phải được đi kèm và được nối tiếp bởi việc thực thi trách nhiệm và đánh giá được đảm nhận trong tinh thần minh bạch lấy cảm hứng từ các tiêu chuẩn của Tin Mừng. Việc trách nhiệm giải trình với cộng đoàn vì thừa tác vụ của mình thuộc về truyền thống lâu đời nhất của chúng ta: từ chính Giáo hội thời các Tông đồ. Chương Mười một của Công vụ Tông đồ cung cấp cho chúng ta ví dụ về việc Phêrô có trách nhiệm phải tường thuật khi trở về Giêrusalem vì việc làm Phép Rửa cho Cornelius, một người ngoại đạo, “Sao ông lại đến nhà những người không cắt bì và ăn uống với họ?” (Cv 11,2-3). Phêrô trả lời bằng cách nêu ra các lý do cho quyết định của mình.
96. Đặc biệt, người ta được yêu cầu làm sáng tỏ hơn ý nghĩa của sự minh bạch. Tiến trình Thượng Hội đồng đã kết nối nó với những từ như: sự thật, sự trung thành, sự rõ ràng, sự trung thực, sự chính trực, sự nhất quán; loại trừ sự mơ hồ, sự giả hình và sự hàm hồ; và không có những động cơ thầm kín. Tin Mừng chúc phúc cho những ai “có lòng trong sạch” (Mt 5,8) và lệnh truyền “phải đơn sơ như chim bồ câu” (Mt 10,16) đã âm vang điều này, cũng như những lời của Tông đồ Phaolô: “Chúng tôi khước từ những cách hành động ám muội, đáng xấu hổ, và không dùng mưu mô mà xử trí, cũng chẳng xuyên tạc lời Thiên Chúa; nhưng chúng tôi giãi bày sự thật, và bằng cách đó, chúng tôi để cho lương tâm mọi người phê phán trước mặt Thiên Chúa” (2Cr 4,2). Do đó, khi chúng ta nói về sự minh bạch, chúng ta đang nói đến một thái độ căn bản dựa trên Kinh Thánh, chứ không phải là một loạt các yêu cầu có tính thủ tục hay hành chánh. Sự minh bạch, trong ý nghĩa chuẩn xác của nó theo Tin Mừng, không làm tổn hại đến sự tôn trọng quyền riêng tư và sự cẩn mật, sự bảo vệ con người, phẩm giá và quyền của họ, ngay cả khi đối mặt với những đòi hỏi vô lý của nhà cầm quyền dân sự. Tuy nhiên, quyền riêng tư này không bao giờ có thể hợp pháp hóa các việc làm trái với Phúc Âm hoặc trở thành cái cớ để lách luật hay che đậy các hành động chống lại sự dữ. Về ấn tòa giải tội, “Ấn bí tích là bắt buộc và không một thế lực con người nào có quyền phán quyết trên nó, cũng như không thể định đoạt nó.” (Diễn văn của Đức Giáo hoàng Phanxicô với các Tham dự viên Khóa học do Tòa Ân giải tổ chức, ngày 29 tháng 3 năm 2019).
97. Thái độ minh bạch mà chúng ta vừa nêu ra sẽ bảo vệ lòng tin tưởng và uy tín cần thiết của một Giáo hội hiệp hành lưu tâm đến các mối tương quan. Khi lòng tin tưởng này bị vi phạm, những người yếu đuối nhất và dễ bị tổn thương nhất sẽ phải chịu đau khổ nhiều nhất. Bất cứ nơi đâu Giáo hội được tin tưởng, việc thực hành tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự đánh giá sẽ giúp củng cố uy tín của Giáo hội. Những thực hành này thậm chí còn quan trọng hơn khi uy tín của Giáo hội cần được xây dựng lại. Chúng đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ trẻ vị thành niên và người lớn dễ bị tổn thương.
98. Trong mọi tình huống, những thực hành này góp phần giữ cho Giáo hội trung thành với sứ mạng của mình. Việc thiếu những thực hành này là một trong những hậu quả của xu hướng giáo sĩ trị, do đó càng thúc đẩy xu hướng này. Giáo sĩ trị dựa trên giả định ngầm rằng những người có thẩm quyền trong Giáo hội không phải chịu trách nhiệm về các hành động và các quyết định của họ, như thể họ tách khỏi hoặc ở trên phần còn lại của Dân Thiên Chúa. Sự minh bạch và trách nhiệm giải trình không chỉ nên được viện dẫn khi nói đến các hình thức lạm dụng tình dục, tài chính và các hình thức lạm dụng khác. Những thực hành này cũng liên quan đến lối sống của các mục tử, đến việc lập kế hoạch mục vụ, các phương pháp loan báo Tin Mừng, và cách Giáo hội tôn trọng phẩm giá con người, ví dụ, liên quan đến các điều kiện làm việc trong các tổ chức của Giáo hội.
99. Để cho Giáo hội hiệp hành được đón nhận, thì nền văn hóa và việc thực hành trách nhiệm giải trình phải định hình các hành động của Giáo hội ở mọi cấp độ. Tuy nhiên, những người có thẩm quyền có trách nhiệm lớn hơn về vấn đề này, và được mời gọi chịu trách nhiệm về nó trước mặt Thiên Chúa và Dân của Ngài. Trong khi trách nhiệm giải trình với cấp trên đã được thực hành trong nhiều thế kỷ, thì chiều kích trách nhiệm giải trình của thẩm quyền đối với cộng đoàn đang cần được khôi phục. Các cơ cấu và thủ tục được thiết lập xuyên qua kinh nghiệm của đời sống thánh hiến (như các công nghị, các cuộc kinh lý theo giáo luật, v.v.) có thể phục vụ như nguồn cảm hứng về khía cạnh này.
100. Tương tự, cần phải có các cấu trúc và các phương pháp để thường xuyên đánh giá việc thực thi sứ vụ này. Đánh giá như vậy không phải là sự xét đoán trên một cá nhân. Đúng hơn, nó là một cách hỗ trợ người làm sứ vụ qua việc nêu bật các khía cạnh tích cực trong sứ vụ của họ và đưa ra ánh sáng các lĩnh vực cần cải thiện. Việc đánh giá cũng giúp Giáo hội địa phương trong việc học hỏi từ kinh nghiệm, điều chỉnh các kế hoạch hành động, xác định những hệ quả từ các quyết định mình đã đưa ra liên quan đến sứ mạng của mình, và luôn chú ý đến tiếng nói của Chúa Thánh Thần.
101. Các Giáo hội địa phương và các nhóm ở đó có trách nhiệm phát triển các hình thức và quy trình hữu hiệu cho trách nhiệm giải trình và cho việc đánh giá theo một cách thức hiệp hành cùng với việc tuân thủ các tiêu chí và giám sát những cơ cấu đã được thiết lập bởi các qui chuẩn giáo luật. Những điều này phải phù hợp với bối cảnh, bao gồm các yêu cầu của luật dân sự, những kỳ vọng hợp pháp của xã hội, và sự hỗ trợ của các chuyên gia trong lĩnh vực này. Cũng cần phải tận dụng các kỹ năng của những người, đặc biệt là giáo dân, có am hiểu chuyên môn hơn về trách nhiệm giải trình và về việc đánh giá. Các thông lệ tốt nhất trong xã hội dân sự nên được phân định và vận dụng trong các bối cảnh Giáo hội. Cách thức thực hiện các quy trình báo cáo và đánh giá ở cấp địa phương nên được đưa vào báo cáo đệ trình trong các chuyến viếng thăm ad limina.
102. Dường như cần phải bảo đảm chí ít là việc tạo lập ở mọi nơi những điều sau đây, theo các hình thức phù hợp với những bối cảnh khác nhau:
a) hoạt động hiệu quả của các hội đồng tài chính;
b) sự tham gia hiệu quả của Dân Thiên Chúa, đặc biệt là các thành viên có năng lực hơn, vào việc lập kế hoạch mục vụ và tài chính;
c) chuẩn bị và công bố (phù hợp với bối cảnh địa phương và dưới hình thức dễ tiếp cận) một báo cáo tài chính hàng năm, theo mức có thể được kiểm toán bên ngoài, thể hiện tính minh bạch về cách quản lý tài sản vật chất và các nguồn tài chính của Giáo hội và các tổ chức của Giáo hội;
d) chuẩn bị và công bố một báo cáo hàng năm về việc thực hiện sứ mạng của Giáo hội địa phương, bao gồm cả các sáng kiến bảo vệ (như việc bảo vệ trẻ vị thành niên và người lớn dễ bị tổn thương), và tiến độ thúc đẩy người giáo dân tiếp cận các vị trí có thẩm quyền và các tiến trình đưa ra quyết định, nêu rõ tỷ lệ nam và nữ;
e) những đánh giá định kỳ tất cả các sứ vụ và vai trò trong Giáo hội.
Chúng ta cần nhận ra rằng đây không phải là một nhiệm vụ quan liêu vì lợi ích của chính nó. Đúng hơn, đây là một nỗ lực truyền thông chứng tỏ là một công cụ giáo dục mạnh mẽ để mang lại sự thay đổi trong văn hóa. Nó cũng cho phép chúng ta hiển thị rõ hơn nhiều sáng kiến có giá trị của Giáo hội và các tổ chức của Giáo hội, là những sáng kiến vốn thường bị che giấu.
Tính Hiệp Hành Và Các Cơ Quan Tham Gia
103. Những người đã chịu Phép Rửa tham gia vào các tiến trình đưa ra quyết định, giải trình và đánh giá thông qua các cấu trúc cơ chế, chủ yếu là qua các cấu trúc đã được quy định cho Giáo hội địa phương theo Bộ Giáo luật hiện hành. Trong Giáo hội La tinh, các cấu trúc này là: Công nghị giáo phận (x. CIC, điều 466), Hội đồng Linh mục (x. CIC, điều 500, § 2), Hội đồng Mục vụ Giáo phận (x. CIC, điều 514, § 1), Hội đồng Mục vụ Giáo xứ (x. CIC, điều 536), Hội đồng Giáo phận và Giáo xứ về các Vấn đề Kinh tế (x. CIC, điều 493 và 537). Trong các Giáo hội Công giáo Đông phương, các cơ quan này là: Công nghị Giáo phận Đông phương (x. CCEO, can. 235 ss.), Công nghị Giáo phận Đông phương về các Vấn đề Kinh tế (x. CCEO, can. 262 ss.), Hội đồng Linh mục (x. CCEO can. 264), Hội đồng Mục vụ Giáo phận Đông phương (x. CCEO can. 272 ss.), Hội đồng Giáo xứ (x. CCEO can. 295). Các thành viên tham gia trên cơ sở vai trò của họ trong Giáo hội, cũng như theo các trách nhiệm và năng lực biệt loại của họ (các đặc sủng, các tác vụ, kinh nghiệm, năng lực, v.v.). Mỗi cơ quan này đóng một vai trò trong việc phân định cần thiết cho việc loan báo Tin Mừng được hội nhập văn hóa, cho sứ mạng của cộng đoàn trong môi trường của mình, và cho chứng tá của những người đã chịu Phép Rửa. Các cơ quan ấy cũng đóng góp vào các tiến trình đưa ra quyết định thông qua các phương tiện đã được thiết lập. Bản thân các cơ quan này trở thành chủ thể của trách nhiệm giải trình và đánh giá, vì chính các cơ quan sẽ cần phải báo cáo về công việc của mình. Các cơ quan tham gia biểu hiện một trong những lĩnh vực triển vọng nhất để hành động nhằm mau mắn triển khai các hướng dẫn của Thượng Hội đồng, mang lại những thay đổi rõ ràng và nhanh chóng.
104. Một Giáo hội hiệp hành dựa trên sự tồn tại, sức sống đầy hiệu năng của các cơ quan tham gia này, chứ không phải dựa trên sự tồn tại chỉ theo danh nghĩa của chúng. Điều này đòi hỏi chúng phải làm việc đúng theo các qui định giáo luật hoặc theo các thông lệ hợp pháp cũng như với sự tôn trọng các qui chế và các điều lệ đối với chúng. Vì lý do này, chúng tôi nhấn mạnh rằng bắt buộc phải có các cơ quan này, như đã được yêu cầu ở mọi giai đoạn của tiến trình Thượng Hội đồng, và chúng phải có thể thực thi đầy đủ vai trò của mình, không chỉ theo cách hoàn toàn hình thức, mà theo những cách phù hợp với các bối cảnh địa phương đa dạng của chúng.
105. Hơn nữa, cần phải giải quyết vấn đề cấu trúc và các hoạt động của những cơ quan này. Thật cần thiết việc bắt đầu bằng cách áp dụng một phương pháp làm việc có tính hiệp hành. Khả năng phù hợp của việc đối thoại trong Thánh Thần để thích nghi có thể lập nên một điểm tham chiếu. Cần đặc biệt chú ý đến cách lựa chọn các thành viên. Khi không dự tính một cuộc bầu chọn, thì cần tiến hành một cuộc tham vấn có tính hiệp hành để thể hiện hết sức có thể thực tế của cộng đoàn hoặc của Giáo hội địa phương, và thẩm quyền liên hệ nên tiến hành bổ nhiệm trên cơ sở các kết quả của cuộc tham vấn, tôn trọng mối liên hệ giữa tham vấn và thảo luận được mô tả ở trên. Cũng cần bảo đảm rằng các thành viên của hội đồng mục vụ giáo phận và giáo xứ có thể đề xuất các nội dung trong chương trình nghị sự theo cách tương tự như được trù liệu trong hội đồng linh mục.
106. Cũng cần sự chú ý như thế về tư cách thành viên của các cơ quan tham gia để khuyến khích phụ nữ, giới trẻ, và những người sống trong cảnh nghèo đói hoặc ở bên lề tham gia nhiều hơn. Hơn nữa, thật thiết yếu việc các cơ quan này bao gồm những người đã chịu Phép Rửa dấn thân sống đức tin của mình trong các thực tế cuộc sống đời thường, những người được nhìn nhận là dấn thân cho một đời sống tông đồ và thừa sai, chứ không chỉ những người tham gia các tổ chức và các việc phục vụ trong nội bộ đời sống Giáo hội. Theo cách này, việc phân định của Giáo hội sẽ có được sự cởi mở hơn, có khả năng phân tích thực tế của mình, và có được những nhãn giới đa dạng. Có thể thích hợp việc thiết lập sự tham gia của các đại biểu đến từ các Giáo hội và Cộng đồng Kitô giáo khác, như diễn ra trong Hội nghị Thượng Hội đồng này, hoặc đại diện của các tôn giáo hiện diện trong vùng. Các Giáo hội địa phương và các nhóm của mình có thể nêu ra các tiêu chí phù hợp hơn để hình thành các cơ quan tham gia phù hợp với mỗi bối cảnh.
107. Hội nghị này đặc biệt chú ý đến các thông lệ tốt và các kinh nghiệm cải cách tích cực. Điều này bao gồm việc lập ra các mạng lưới hội đồng mục vụ trong các cộng đoàn, các giáo xứ, các khu vực mục vụ, và giữa các hội đồng mục vụ giáo phận. Việc thường xuyên tổ chức các hội nghị trong Giáo hội ở mọi cấp cũng được khuyến khích. Không giới hạn việc tham vấn đối với các thành viên của Giáo hội Công giáo, những hội nghị này cũng nên cởi mở lắng nghe những đóng góp từ các Giáo hội và Cộng đồng Kitô giáo khác. Cũng nên chú ý đến các tôn giáo trong khu vực.
108. Hội nghị này đề xuất rằng Công nghị giáo phận và Hội đồng giáo phận Đông phương nên được đánh giá cao hơn nữa, trong tư cách là những cơ quan tham vấn thường xuyên giữa giám mục và phần Dân Chúa được giao phó cho ngài. Đây phải là nơi để lắng nghe, cầu nguyện và phân định, đặc biệt khi liên quan đến các lựa chọn liên hệ đến đời sống và sứ mạng của một Giáo hội địa phương. Hơn nữa, công nghị giáo phận có thể cung cấp phạm vi cho việc thực thi trách nhiệm giải trình và đánh giá, theo đó giám mục đưa ra báo cáo về hoạt động mục vụ trong các lĩnh vực khác nhau: việc thực hiện kế hoạch mục vụ của giáo phận, việc tiếp nhận các tiến trình hiệp hành của toàn thể Giáo hội, các sáng kiến trong việc bảo vệ và quản trị tài chính và các tài sản vật chất. Do đó, cần phải củng cố các qui định của giáo luật hiện hành để phản ánh tốt hơn đặc tính hiệp hành và sứ mạng của mỗi Giáo hội địa phương, quy định việc các cơ quan này họp định kỳ, chứ không thất thường và thưa thớt.
Phần IV – MỘT MẺ LƯỚI ĐẦY
Sự Chuyển Đổi Của Các Mối Dây Ràng Buộc
Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ, kéo theo lưới đầy cá… Ông Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những con cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy, mà lưới không bị rách. (Ga 21,8.11)
109. Những chiếc lưới thả theo Lời của Đấng Phục sinh đã mang lại một mẻ cá dồi dào. Tất cả các môn đệ cùng nhau làm việc, kéo lưới vào; Phêrô đóng một vai trò đặc biệt. Trong Phúc Âm, đánh cá là một hành động được làm cùng với nhau: mỗi người có nhiệm vụ riêng của mình, khác nhau nhưng được phối hợp với những người khác. Đây là Giáo hội hiệp hành đang hoạt động – được thành lập dựa trên các mối dây hiệp thông kết hợp chúng ta, và có chỗ cho mọi người và mọi nền văn hóa. Trong một thời đại có sự thay đổi lớn đang diễn ra ở những nơi mà Giáo hội đã cắm rễ và đang lữ hành, chúng ta cần phát huy những hình thức mới mẻ để trao đổi các ân ban, cũng như phát huy mạng lưới các mối dây liên hết chúng ta. Trong điều này, chúng ta được nâng đỡ bởi sứ vụ của các giám mục trong sự hiệp thông giữa các ngài và với Giám mục Rôma.
Bám Rễ Vững Chắc Nhưng Vẫn Là Những Khách Hành Hương
110. Việc công bố Tin Mừng đánh thức đức tin trong trái tim những con người nam và nữ và dẫn đến việc thành lập Giáo hội tại một nơi chốn cụ thể. Giáo hội không thể được nhận hiểu tách biệt khỏi các nguồn gốc của nó trong một lãnh thổ cụ thể, trong chính không gian và thời gian mà một kinh nghiệm chung về việc gặp gỡ với Thiên Chúa cứu độ diễn ra. Chiều kích địa phương này của Giáo hội chúng ta sẽ bảo tồn sự đa dạng phong phú của những cách diễn tả đức tin đặt nền trong một môi trường văn hóa và lịch sử cụ thể. Sự hiệp thông của các Giáo hội địa phương là biểu hiện sự hiệp nhất của các tín hữu trong Giáo hội duy nhất. Vì thế, sự hoán cải theo tinh thần hiệp hành kêu gọi mỗi người mở rộng không gian của trái tim mình, trái tim là nơi đầu tiên vang âm tất cả các mối tương quan của chúng ta, bắt nguồn từ mối tương quan cá vị của mỗi người với Chúa Giêsu Kitô và Giáo hội của Người. Đây là khởi điểm và là điều kiện của mọi cuộc cải cách có tính hiệp hành về những mối dây hiệp thông của chúng ta và về những không gian nơi chúng ta là Giáo hội. Hành động mục vụ không thể giới hạn ở việc chăm sóc các mối tương quan giữa những người vốn đã cảm thấy hòa hợp với nhau, mà đúng hơn phải thúc đẩy sự gặp gỡ giữa tất cả mọi người nam nữ.
111. Kinh nghiệm về sự bám rễ có nghĩa là vật lộn với những thay đổi văn hóa-xã hội sâu sắc vốn đang biến đổi nhận thức về nơi chốn. “Nơi chốn” không còn có thể được quan niệm duy chỉ về mặt không gian địa lý nữa, mà trong thời đại của chúng ta nó còn gợi lên sự thuộc về một mạng lưới các tương quan cũng như sự thuộc về một nền văn hóa mà các gốc rễ vùng miền của nó thì năng động và linh hoạt hơn bao giờ trước đây. Hiện tượng đô thị hóa là một trong những nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự thay đổi này. Ngày nay, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, phần lớn dân số toàn cầu sống ở các thành phố. Các thành phố lớn thường là những khối thị dân chen chúc không có một lịch sử và bản sắc, trong đó người ta sống một sự tồn tại cô lập. Các mối dây liên kết vùng miền truyền thống đang được xác định lại, làm mờ những ranh giới của nhiều giáo phận và giáo xứ. Sống ở những nơi này, Giáo hội được kêu gọi xây dựng lại đời sống cộng đoàn, để làm cho các thực thể mù mờ có được nét dạng và để xây dựng lại các mối tương quan trong khung cảnh này. Để được như vậy, chúng ta không chỉ tiếp tục trân trọng các cấu trúc vẫn còn hữu ích; mà chúng ta còn cần “năng lực sáng tạo trong sứ mạng” để khám phá những hình thức chăm sóc mục vụ mới mẻ và xác định những quy trình chăm sóc cụ thể. Vẫn còn thực tế là các bối cảnh nông thôn, một số trong đó là những vùng ngoại vi hiện sinh thực sự, không thể bị bỏ qua nhưng cần phải có sự quan tâm mục vụ đặc biệt, như trường hợp những nơi bị quên lãng và loại trừ.
112. Vì nhiều lý do, thời đại của chúng ta được đánh dấu bằng sự gia tăng về tính di động của dân số. Những người tị nạn và di cư thường hình thành các cộng đồng năng động, bao gồm cả thực hành tôn giáo, khiến nơi họ định cư trở nên đa văn hóa. Một số người duy trì mối liên kết chặt chẽ với đất nước bản quán của mình, nhất là với sự trợ giúp của phương tiện truyền thông kỹ thuật số, và do đó họ có thể thấy khó khăn trong việc xây dựng các mối nối kết tại xứ sở mới; những người khác thấy mình đang sống mà không có gốc rễ. Người dân của các quốc gia sở tại cũng thấy việc chào đón những người mới đến là một thách đố. Tất cả đều kinh nghiệm sự tác động do gặp những nguồn gốc địa lý, văn hóa và ngôn ngữ rất đa dạng, và được kêu gọi xây dựng những cộng đồng liên văn hóa. Không nên bỏ qua tác động của hiện tượng di cư đối với đời sống của Giáo hội. Theo nghĩa này, tình hình của một số Giáo hội Công giáo Đông phương là tiêu biểu cho thực tế này, với số lượng tín đồ ngày càng tăng sống ở nước ngoài. Cần phải có những cách tiếp cận mới để duy trì các mối liên kết giữa những người tản lạc và Giáo hội gốc của họ, đồng thời tạo lập những mối liên kết mới theo hướng tôn trọng các nguồn gốc tâm linh và văn hóa khác nhau.
113. Sự tràn ngập của văn hóa kỹ thuật số, đặc biệt rõ ràng nơi những người trẻ, đang thay đổi sâu sắc kinh nghiệm của họ về không gian và thời gian; nó ảnh hưởng đến các hoạt động hàng ngày của họ, sự giao tiếp và các mối tương quan liên vị, bao gồm cả đức tin. Các cơ hội mà internet cung cấp đang định hình lại các mối tương quan, các dây liên kết và các ranh giới. Ngày nay, chúng ta thường cảm nhận sự cô đơn và tình trạng bị gạt ra ngoài lề, mặc dù chúng ta kết nối nhiều hơn bao giờ hết. Hơn nữa, những người có những lợi ích kinh tế và chính trị riêng có thể khai thác phương tiện truyền thông xã hội để truyền bá các ý thức hệ và tạo ra các dạng phân cực đầy hung hăng và thao túng. Chúng ta chưa chuẩn bị tốt cho điều này và cần dành các nguồn lực để bảo đảm rằng môi trường kỹ thuật số trở thành một không gian có tính ngôn sứ cho sứ mạng và cho việc rao giảng. Các Giáo hội địa phương nên khuyến khích, hỗ trợ và đồng hành với những người tham gia vào sứ mạng trong môi trường kỹ thuật số. Các cộng đồng và các nhóm kỹ thuật số Kitô giáo, đặc biệt là những người trẻ, cũng được kêu gọi suy nghĩ về những cách họ tạo ra các mối liên kết gắn bó, thúc đẩy sự gặp gỡ và đối thoại. Họ cần cung cấp sự đào tạo giữa các bạn hữu đồng trang lứa của mình, phát triển một cách thức thể hiện Giáo hội có tính hiệp hành. Internet, được tạo nên như một mạng lưới kết nối, mang đến những cơ hội mới để sống tốt hơn các chiều kích hiệp hành của Giáo hội.
114. Những phát triển xã hội và văn hóa này thách thức Giáo hội xem xét lại ý niệm ‘địa phương’ trong đời sống của mình, và duyệt lại các cấu trúc tổ chức của mình để chúng có thể phục vụ tốt hơn cho sứ mệnh. Thật thiết yếu việc hiểu “nơi chốn” như khung cảnh thực tế và hiện thực trong đó nhân loại được hình thành, mà không phủ nhận rằng cũng có một chiều kích địa lý và văn hóa trong đó. Ở đây, nơi mạng lưới các mối tương quan được thiết lập, Giáo hội được kêu gọi thể hiện tính bí tích của mình (x. LG1) và thực thi sứ mạng của mình.
115. Mối liên hệ giữa nơi chốn và không gian cũng dẫn chúng ta đến việc suy ngẫm về Giáo hội như “ngôi nhà”. Khi không coi Giáo hội như một không gian khép kín, không thể tiếp cận, và phải được bảo vệ bằng mọi giá, thì hình ảnh ngôi nhà sẽ gợi lên khả năng chào đón, hiếu khách và bao gồm. Bản thân công trình tạo dựng là ngôi nhà chung của chúng ta, nơi những con người nam nữ, các thành viên của gia đình nhân loại duy nhất, sống với tất cả các loài thụ tạo khác. Trách nhiệm của chúng ta, được Chúa Thánh Thần hỗ trợ, là bảo đảm rằng Giáo hội được cảm nhận như một ngôi nhà tiếp đón, một bí tích của sự gặp gỡ và cứu rỗi, một trường học hiệp thông cho tất cả các con trai và con gái của Thiên Chúa. Giáo hội cũng là Dân Thiên Chúa bước đi với Chúa Kitô, trong đó mọi người được kêu gọi trở thành người hành hương của hy vọng. Thực hành hành hương truyền thống là một dấu chỉ của điều này. Lòng đạo đức bình dân là một trong những nơi chốn của một Giáo hội có tính hiệp hành và sứ mạng.
116. Chính Giáo hội địa phương, được hiểu là một giáo phận, là cảnh vực cơ bản trong đó sự hiệp thông trong Chúa Kitô của những người đã chịu Phép Rửa được thể hiện đầy đủ nhất. Tại đây, Giáo hội địa phương được tập hợp trong cử hành Thánh Thể do giám mục của mình chủ trì. Mỗi Giáo hội địa phương có tổ chức nội bộ riêng, đồng thời cũng duy trì các mối tương quan với các Giáo hội địa phương khác.
117. Trong Giáo hội địa phương, suốt dòng lịch sử, một trong những nơi chính để tụ họp được trao cho chúng ta là giáo xứ. Cộng đoàn giáo xứ qui tụ trong cử hành Thánh Thể là nơi ưu tiên của các mối tương quan, của sự chào đón, của sự phân định và sứ mạng. Những thay đổi trong cách chúng ta kinh nghiệm và sống mối tương quan của mình với địa phương đòi hỏi chúng ta phải xem xét lại cách thức định hình các giáo xứ. Điểm đặc trưng của giáo xứ, đó là một cộng đoàn không tự lựa chọn. Mọi người qui tụ ở đó từ nhiều thế hệ, nghề nghiệp, xuất xứ, giai cấp xã hội và địa vị khác nhau. Việc đáp ứng các nhu cầu mới của sứ mạng đòi hỏi phải mở ra các hình thức hoạt động mục vụ mới, có tính đến tính di động của người ta và “lãnh thổ hiện sinh” trong đó cuộc sống của họ diễn ra. Bằng cách đặc biệt nhấn mạnh đến việc khai tâm Kitô giáo cũng như việc cung cấp sự đồng hành và đào tạo, cộng đoàn giáo xứ sẽ có thể hỗ trợ mọi người ở các giai đoạn khác nhau của cuộc sống trong việc chu toàn sứ mạng của họ trong thế giới. Theo cách này, sẽ thấy rõ hơn rằng giáo xứ không qui hướng về chính mình mà hướng đến sứ mạng. Vì thế giáo xứ được kêu gọi nâng đỡ sự dấn thân của rất nhiều người đang sống và làm chứng cho đức tin của mình theo nhiều cách thức thông qua nghề nghiệp của họ, trong các hoạt động xã hội, văn hóa và chính trị. Ở nhiều vùng trên thế giới, các Cộng đoàn Kitô hữu nhỏ hay các Cộng đoàn Giáo hội cơ bản là địa bàn nơi các mối tương quan hỗ tương gần gũi đầy ý nghĩa có thể phát triển mạnh mẽ, đem lại cơ hội kinh nghiệm tính hiệp hành một cách cụ thể.
118. Chúng ta nhận ra rằng các hội dòng đời sống thánh hiến, các hiệp hội đời sống tông đồ, cũng như các đoàn thể, phong trào và những cộng đoàn mới, có khả năng bén rễ tại địa phương và đồng thời kết nối các nơi chốn và môi trường khác nhau, thường ở cấp độ quốc gia hay quốc tế. Hoạt động của họ, cùng với hoạt động của nhiều cá nhân và các nhóm không chính thức, thường mang Tin Mừng đến các bối cảnh rất đa dạng: bệnh viện, nhà tù, nhà dưỡng lão, trung tâm tiếp nhận người di cư, trẻ vị thành niên, những người bị gạt ra lề và các nạn nhân của bạo lực; cho đến các trung tâm giáo dục và đào tạo, trường học phổ thông và trường đại học nơi những người trẻ và các gia đình gặp gỡ; các trung tâm văn hóa, chính trị và phát triển nhân bản toàn diện, nơi mà các dạng thức mới của việc sống với nhau được hình dung và xây dựng. Với lòng biết ơn chúng ta cũng hướng nhìn đến các đan viện, là những nơi tụ họp và phân định, và nói về một thực tại “bên kia” liên quan đến toàn thể Giáo hội và hướng dẫn con đường cho Giáo hội. Việc làm sống động các cơ quan đa dạng này và nuôi dưỡng các mối dây hiệp nhất là trách nhiệm đặc biệt của giám mục. Các hội dòng và hiệp hội được kêu gọi hành động hiệp lực với Giáo hội địa phương, tham gia vào sự năng động của tính hiệp hành.
119. Việc đánh giá lớn hơn các không gian ‘trung gian’ giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ – chẳng hạn như các giáo tỉnh và các nhóm Giáo hội quốc gia và lục địa – có thể thúc đẩy một sự hiện diện có ý nghĩa hơn của Giáo hội trong thế giới ngày nay. Tính di động và sự kết nối gia tăng làm cho ranh giới giữa các Giáo hội trở nên uyển chuyển, đòi hỏi phải có sứ vụ trên một “lãnh thổ văn hóa-xã hội rộng lớn”. Sứ vụ như vậy cần bảo đảm rằng đời sống Kitô hữu “phải thích nghi với đặc tính và khuynh hướng của mỗi nền văn hóa” trong khi tránh mọi “chủ nghĩa cục bộ sai lầm” (AG 22).
Sự Trao Đổi Các Ân Ban
120. Việc chúng ta đồng hành với nhau như những môn đệ của Chúa Giêsu, với các đặc sủng và các tác vụ đa dạng của chúng ta, trong khi đồng thời tham gia vào việc trao đổi các ân ban giữa các Giáo hội, là một dấu chỉ hữu hiệu của tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa trong Chúa Kitô được thở ra trong Chúa Thánh Thần, Đấng đồng hành, nâng đỡ và hướng dẫn hành trình của nhân loại hướng tới Triều đại của Thiên Chúa. Việc trao đổi ân ban này liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống Giáo hội. Giáo hội chu toàn sứ mạng của mình bằng cách đón nhận và khuyến khích “sự phong phú, các nguồn lực và phong tục của các dân tộc trong chừng mực chúng tốt lành; và khi tiếp nhận chúng, Giáo hội thanh tẩy, củng cố và thăng tiến chúng” (LG 13). Giáo hội làm như vậy vì Giáo hội vừa được thiết lập trong Chúa Kitô như Dân Thiên Chúa từ mọi dân tộc trên trái đất, vừa được cấu trúc một cách năng động trong sự hiệp thông của các Giáo hội địa phương, của các Giáo hội tự trị (sui iuris) bên trong một Giáo hội Công giáo duy nhất, và của các nhóm thuộc các Giáo hội ấy. Huấn dụ của Tông đồ Phêrô: “Như những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác” (1Pr 4,10) – lời này chắc chắn có thể áp dụng cho mỗi Giáo hội địa phương. Mối tương quan giữa Giáo hội Công giáo La tinh và Công giáo Đông phương là một ví dụ có tính kiểu thức và có sức truyền cảm hứng cho việc trao đổi các ân ban như thế. Mối tương quan này cần được làm sống hoạt lại và xem xét lại với sự lưu tâm đặc biệt do những hoàn cảnh lịch sử thay đổi và cấp bách. Việc trao đổi các ân ban và tìm kiếm thiện ích chung trong các khu vực địa lý xuyên quốc gia và liên văn hóa rộng lớn như vùng Amazon, lưu vực sông Congo và Biển Địa Trung Hải đang nổi lên như một ví dụ về sự mới mẻ và niềm hy vọng. Sự trao đổi này bao gồm một cam kết quan tâm đối với các vấn đề xã hội có tầm vóc liên quan đến toàn cầu.
121. Giáo hội, cả ở cấp độ địa phương lẫn do tính hiệp nhất Công giáo của mình, mong muốn trở thành một mạng lưới tương quan truyền bá và thúc đẩy – trong tinh thần ngôn sứ – một văn hóa gặp gỡ, công bằng xã hội, sự bao gồm những người bị gạt ra lề, sự hiệp thông giữa các dân tộc và sự chăm sóc trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta. Việc thực hiện cụ thể những điều này đòi hỏi mỗi Giáo hội phải chia sẻ các nguồn lực của mình trong tinh thần liên đới, không có tính gia trưởng trịch thượng hay sự lệ thuộc, với sự tôn trọng tính khác biệt và thúc đẩy tính hỗ tương lành mạnh. Điều này bao gồm, khi cần thiết, một quyết tâm chữa lành các vết thương của ký ức và bước đi trên con đường hòa giải. Việc trao đổi ân ban và chia sẻ các nguồn lực giữa các Giáo hội địa phương thuộc các vùng khác nhau sẽ thúc đẩy sự hiệp nhất của Giáo hội, tạo ra mối liên kết giữa các cộng đồng Kitô giáo liên hệ. Thật cần thiết việc xác định các điều kiện bảo đảm rằng các linh mục giúp đỡ các Giáo hội đang thiếu giáo sĩ không chỉ là một giải pháp có tính chức năng mà còn là một nguồn lực cho sự phát triển của cả Giáo hội sai họ đến lẫn Giáo hội tiếp nhận họ. Tương tự như vậy, thật quan trọng việc bảo đảm rằng sự trợ giúp kinh tế không thoái hóa thành chủ nghĩa duy phúc lợi, mà thúc đẩy tình liên đới theo Tin Mừng và được quản lý một cách minh bạch và đáng tin cậy.
122. Việc trao đổi các ân ban có ý nghĩa quan trọng trong hành trình hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình giữa tất cả các Giáo hội và cộng đồng Kitô giáo. Hơn nữa, nó cho thấy một dấu chỉ hữu hiệu của sự hiệp nhất trong đức tin và tình yêu Chúa Kitô, là điều thúc đẩy cả uy tín và tác động của sứ mạng Kitô giáo (x. Ga 17,21). Thánh Gioan Phaolô II đã áp dụng cách diễn đạt sau đây cho đối thoại đại kết: “Đối thoại không chỉ đơn thuần là trao đổi ý tưởng. Theo một cách nào đó, nó luôn là ‘sự trao đổi các ân ban’”. (UUS 28). Những nỗ lực trước đây và đang diễn ra để nhập thể một Phúc Âm duy nhất bởi các truyền thống Kitô giáo khác nhau trong sự đa dạng của các bối cảnh văn hóa, các hoàn cảnh lịch sử và các thách đố xã hội – trong chú tâm đến Lời Chúa và tiếng nói của Chúa Thánh Thần – đã tạo ra hoa trái dồi dào về sự thánh thiện, về bác ái, linh đạo, thần học, sự liên đới xã hội và văn hóa. Đã đến lúc phải trân trọng những của cải quý giá này: với lòng quảng đại, sự chân thành, không định kiến, với lòng tri ân Chúa và sự cởi mở với nhau, trao tặng chúng cho nhau mà không cho rằng chúng là tài sản độc quyền của mình. Gương mẫu của các vị thánh và các chứng nhân đức tin từ các Giáo hội và Cộng đồng Kitô giáo khác cũng là một món quà mà chúng ta có thể nhận được, bao gồm cả việc hội nhập việc tưởng niệm các vị ấy – đặc biệt là các vị tuẫn đạo – vào lịch phụng vụ của chúng ta.
123. Đức thánh cha Phanxicô và Đại giáo trưởng Ahmed Al-Tayyeb của Al-Azhar đã tuyên bố cam kết áp dụng “một nền văn hóa đối thoại như con đường; sự hợp tác với nhau như quy tắc ứng xử; sự hiểu biết lẫn nhau như phương pháp và tiêu chuẩn” trong Văn kiện về Tình huynh đệ con người vì Hòa Bình Thế Giới và Chung Sống, được ký kết tại Abu Dhabi vào ngày 4 tháng 2 năm 2019. Đây không phải là một mong muốn vu vơ hay một điều gì đó tùy chọn trên hành trình của Dân Chúa trong thế giới ngày nay. Một Giáo hội hiệp hành cam kết bước đi trên con đường này cùng với các tín đồ của các tôn giáo khác và những người có những niềm tin khác dù ở bất cứ nơi đâu. Giáo hội tự do chia sẻ niềm vui Phúc Âm và đón nhận với lòng biết ơn những ân ban của họ. Thông qua sự hợp tác này, chúng ta nhắm mục tiêu cùng nhau xây dựng, như những người anh chị em, trong tinh thần “hoạt động với nhau và hỗ trợ lẫn nhau” (x. GS 40), trong công lý, liên đới, hòa bình, và đối thoại liên tôn giáo. Ở một số vùng, mọi người gặp nhau trong các cộng đồng láng giềng nhỏ bất kể họ thuộc tôn giáo nào. Những cộng đồng này cung ứng một môi trường thuận lợi cho một cuộc đối thoại ba mặt: đối thoại trong đời sống, trong hành động và trong cầu nguyện.
Các Mối Dây Hiệp Nhất: Các Hội Đồng Giám Mục Và Các Hội Nghị Giáo Hội
124. Nguyên tắc chỉ đạo của mối tương quan giữa các Giáo hội là quan điểm hiệp thông qua việc chia sẻ các ân ban. Điều này kết hợp sự chú ý đến các mối liên kết tạo nên sự hiệp nhất của toàn thể Giáo hội với sự nhìn nhận và trân trọng tính đặc thù trong bối cảnh của mỗi Giáo hội địa phương, cùng với lịch sử và truyền thống của nó. Một phong cách hiệp hành cho phép các Giáo hội địa phương di chuyển với nhịp độ khác nhau. Những khác biệt về nhịp độ có thể được xem như sự diễn tả của tính đa dạng hợp pháp và là cơ hội để chia sẻ các ân ban và làm phong phú lẫn nhau. Đường chân trời chung này đòi hỏi sự phân định, nhận diện và thúc đẩy những thực hành cụ thể cho phép chúng ta trở nên một Giáo hội hiệp hành trong sứ mạng.
125. Các Hội đồng Giám mục diễn tả và thực hiện tính tập đoàn của các giám mục nhằm thúc đẩy sự hiệp thông giữa các Giáo hội và đáp ứng một cách hiệu quả hơn các nhu cầu của đời sống mục vụ. Đó là một công cụ cơ bản để tạo ra các mối liên kết, chia sẻ các kinh nghiệm và các thực hành tốt giữa các Giáo hội, và để thích ứng đời sống Kitô hữu cũng như việc diễn tả đức tin với các nền văn hóa khác nhau. Với sự tham gia của toàn thể Dân Thiên Chúa, các Hội đồng Giám mục cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển tính hiệp hành. Dựa trên các kết quả của tiến trình Thượng Hội đồng, chúng tôi đề nghị như sau:
a) thu thập kết quả của các cuộc thảo luận về quy chế thần học và pháp lý cho các Hội đồng Giám mục.
b) nêu rõ lãnh vực thẩm quyền về giáo lý và kỷ luật của các Hội đồng Giám mục. Trong khi không làm tổn hại đến thẩm quyền của vị giám mục trong Giáo hội được giao phó cho ngài, cũng như không gây nguy hiểm cho sự hiệp nhất hay tính Công giáo của Giáo hội, thì việc thực thi thẩm quyền có tính tập đoàn như thế có thể thúc đẩy việc giảng dạy chân thực về đức tin theo cách thích hợp và có tính tiếp cận văn hóa trong các bối cảnh khác nhau bên cạnh việc xác định sự diễn tả phù hợp về phụng vụ, giáo lý, kỷ luật, thần học mục vụ và linh đạo (x. AG 22).
c) một tiến trình đánh giá kinh nghiệm về hoạt động cụ thể của các Hội đồng Giám mục, về mối liên hệ giữa các giám mục và với Tòa thánh để nhận diện các cải cách cụ thể cần thiết. Các chuyến viếng thăm ad limina Apostolorum có thể cung cấp cơ hội phù hợp cho việc này;
d) bảo đảm rằng mọi giáo phận đều trực thuộc một giáo tỉnh và một Hội đồng Giám mục;
e) nêu rõ rằng các quyết định do Hội đồng Giám mục đưa ra áp đặt nghĩa vụ Giáo hội cho mỗi giám mục đã tham gia vào quyết định ấy trong liên quan đến giáo phận của mình;
126. Trong tiến trình Thượng Hội đồng này, bảy hội nghị Giáo hội cấp lục địa đã diễn ra vào đầu năm 2023 vừa là một sự đổi mới phù hợp vừa là một di sản mà chúng ta phải trân trọng. Những hội nghị đó là một cách hữu hiệu để thực thi giáo huấn của Công đồng về giá trị của “mỗi vùng xã hội-văn hóa lớn” trong việc theo đuổi “một sự thích nghi sâu sắc hơn trong toàn bộ lĩnh vực đời sống Kitô giáo” (AG 22). Để giúp các hội nghị ấy có thể đóng góp đầy đủ hơn vào sự phát triển của một Giáo hội hiệp hành, sẽ cần phải làm rõ vị thế có tính thần học và giáo luật của các hội nghị Giáo hội, cũng như vị thế của các nhóm cấp lục địa của các Hội đồng Giám mục. Đặc biệt, Chủ tịch của các nhóm ấy có trách nhiệm khuyến khích và hỗ trợ sự tiếp tục phát triển của tiến trình này.
127. Trong các hội nghị Giáo hội (khu vực, quốc gia, lục địa), các thành viên thể hiện và đại diện cho sự đa dạng của Dân Thiên Chúa (gồm cả các giám mục) tham gia vào việc phân định sẽ cho phép các giám mục, trong tư cách tập đoàn, đạt tới các quyết định thuộc quyền riêng do sứ vụ của các ngài. Kinh nghiệm này cho thấy cách mà tính hiệp hành giúp cho sự tham gia cụ thể của tất cả (Dân thánh của Thiên Chúa) và sứ vụ của một số (tức giám mục đoàn) trong tiến trình đưa ra quyết định liên quan đến sứ mạng của Giáo hội. Chúng tôi đề xuất rằng sự phân định có thể bao gồm – theo cách phù hợp với sự đa dạng của các bối cảnh – các không gian để lắng nghe và đối thoại với các Kitô hữu khác và các đại diện của các tôn giáo khác, các cơ chế công cộng, các tổ chức xã hội dân sự và xã hội nói chung.
128. Trong các hoàn cảnh xã hội và chính trị cụ thể, một số Hội đồng Giám mục gặp khó khăn trong việc tham gia vào các hội nghị lục địa hoặc các cơ quan Giáo hội siêu quốc gia. Tòa thánh có trách nhiệm hỗ trợ những Hội đồng Giám mục này bằng cách thúc đẩy đối thoại và tin tưởng lẫn nhau giữa các nhà nước hay quốc gia, để các Hội đồng Giám mục này có cơ hội tham gia với các Hội đồng Giám mục khác nhằm có thể chia sẻ các ân ban.
129. Để thực hiện một “sự tản quyền lành mạnh” (EG 16) và một sự hội nhập văn hóa hữu hiệu của đức tin, không chỉ cần nhìn nhận vai trò của các Hội đồng Giám mục, mà còn phải đánh giá lại việc thiết lập các công đồng địa phương, cả cấp tỉnh lẫn toàn thể. Việc cử hành định kỳ các công đồng này là nghĩa vụ trong phần lớn lịch sử của Giáo hội và hiện được quy định trong giáo luật của Giáo hội La tinh (x. CIC can. 439-446). Các công đồng này nên được triệu tập định kỳ. Thủ tục để Tòa Thánh công nhận các kết luận của các công đồng địa phương (recognitio) nên được cải cách để khuyến khích việc công bố kịp thời, bằng cách chỉ định thời hạn chính xác, hoặc trong trường hợp các vấn đề thuần túy có tính mục vụ hay kỷ luật (không liên quan trực tiếp đến các vấn đề về đức tin, luân lý hoặc kỷ luật bí tích), thì bằng cách đưa ra một giả định pháp lý tương đương với sự ngầm chấp thuận.
Việc Phục Vụ Của Giám Mục Rôma
130. Tiến trình Thượng Hội đồng cũng đã xem xét lại vấn đề về cách thức Giám mục Rôma thi hành sứ vụ của mình. Tính hiệp hành cho phép các khía cạnh tập thể (“tất cả”), tập đoàn (“một số”), và cá nhân (“một”) của các Giáo hội địa phương và của toàn thể Giáo hội, liên kết và thống nhất chúng với nhau. Theo quan điểm này, thừa tác vụ Phêrô của Đức Giáo hoàng đóng một vai trò cơ bản trong động lực hiệp hành, cũng như khía cạnh tập thể bao gồm toàn thể Dân Chúa và chiều kích tập đoàn của thừa tác vụ giám mục (x. ITC 64).
131. Do đó, chúng ta có thể hiểu được tầm mức khẳng định của Công đồng rằng “trong sự hiệp thông Giáo hội, có những Giáo hội địa phương hợp pháp được hưởng các truyền thống riêng của mình, trong khi quyền tối thượng của ngai tòa Phêrô vẫn nguyên vẹn, ngai tòa này chủ trì sự hiệp thông bác ái phổ quát và bảo vệ những khác biệt hợp pháp trong khi quan tâm sao cho những gì là địa phương không những không gây hại cho sự hiệp nhất mà còn thúc đẩy sự hiệp nhất” (LG 13). Giám mục Rôma, nền tảng của sự hiệp nhất Giáo hội (LG 23), là người bảo đảm cho tính hiệp hành: ngài là người triệu tập Giáo hội trong tính hiệp hành và chủ trì nó, xác nhận các kết quả của nó. Là Người kế vị thánh Phêrô, ngài có một vai trò riêng biệt trong việc bảo vệ kho tàng đức tin và luân lý, bảo đảm rằng các tiến trình hiệp hành hướng đến sự hiệp nhất và chứng tá. Cùng với Giám mục Rôma, tập đoàn các Giám mục có một vai trò không thể thay thế trong việc chăm sóc toàn thể Giáo hội (x. LG 22-23) và trong việc thúc đẩy tính hiệp hành trong tất cả các Giáo hội địa phương.
132. Là người giữ gìn sự hiệp nhất trong đa dạng, Giám mục Rôma bảo đảm rằng bản sắc của các Giáo hội Công giáo Đông phương được bảo vệ, và các truyền thống thần học, giáo luật, phụng vụ, linh đạo và mục vụ lâu đời của các Giáo hội ấy được tôn trọng. Các Giáo hội này được trang bị các cơ cấu thảo luận đồng nghị riêng của mình: Thượng hội đồng Giám mục của Giáo hội Thượng phụ, Thượng hội đồng của Giáo hội Tổng giám mục Chính (CCEO c. 102. ss., 152), Hội đồng Giáo Tỉnh (CCEO can. 137), Hội đồng Phẩm trật (CCEO cc. 155, § 1, 164 ss.), và cuối cùng là các Hội nghị Phẩm trật của các Giáo hội tự trị (sui iuris) khác nhau (CCEO can. 322). Là các Giáo hội tự trị (sui iuris) hiệp thông trọn vẹn với Giám mục Rôma, các Giáo hội ấy giữ vững bản sắc Đông phương và tính tự trị của mình. Nhân danh tính hiệp hành, thật thích đáng việc chúng ta cùng nhau xem xét lại lịch sử để chữa lành vết thương trong quá khứ và đào sâu cách chúng ta sống hiệp thông. Điều này có nghĩa là cân nhắc đến việc điều chỉnh các mối tương quan giữa các Giáo hội Công giáo Đông phương và Giáo triều Rôma. Các mối tương quan này phải được đặc trưng bởi sự trao đổi các ân ban, sự hợp tác và làm phong phú lẫn nhau.
133. Để thúc đẩy những mối liên hệ này, Hội nghị Thượng Hội đồng này đề xuất thành lập một Hội đồng các Thượng phụ, các Tổng giám mục chính và các Tổng giám mục Giáo đô của các Giáo hội Công giáo Đông phương do Đức Giáo hoàng chủ trì, đây sẽ là biểu hiện của tính hiệp hành và là một công cụ thúc đẩy sự hiệp thông. Hội đồng này cũng sẽ phục vụ như một phương tiện chia sẻ di sản phụng vụ, thần học, giáo luật và linh đạo. Việc nhiều tín hữu Đông phương di cư đến các vùng của Nghi lễ La tinh có nguy cơ làm tổn hại đến bản sắc của họ. Các công cụ và các qui chuẩn cần được phát triển để tăng cường sự hợp tác hết sức có thể giữa Giáo hội La tinh và các Giáo hội Công giáo Đông phương nhằm giải quyết tình hình này. Hội nghị Thượng Hội đồng này khuyến nghị sự đối thoại chân thành và hợp tác huynh đệ giữa các Giám mục La tinh và Đông phương, để bảo đảm sự chăm sóc mục vụ tốt hơn cho các tín đồ Đông phương không có linh mục thuộc nghi lễ riêng của họ, và để bảo đảm, với quyền tự chủ thích hợp, sự tham gia của các Giám mục Đông phương vào các Hội đồng Giám mục. Cuối cùng, Hội nghị này đề xuất rằng Đức thánh cha triệu tập một Thượng Hội đồng đặc biệt để thúc đẩy sự củng cố và tái phát triển của các Giáo hội Công giáo Đông phương.
134. Một suy tư có tính hiệp hành về việc thực thi sứ vụ Phêrô phải được thực hiện từ nhãn giới về “sự tản quyền lành mạnh” (EG 16) mà Đức thánh cha Phanxicô và nhiều Hội đồng Giám mục mong muốn. Theo Tông hiến Praedicate Evangelium, sự phân quyền này có nghĩa là “để cho các giám mục có thẩm quyền giải quyết – trong khi thực thi ‘nhiệm vụ riêng của các ngài là thầy dạy’ và mục tử – những vấn đề mà các vị am hiểu và không ảnh hưởng đến sự hiệp nhất của Giáo hội về giáo lý, kỷ luật và hiệp thông, luôn hành động với tinh thần đồng trách nhiệm vốn là hoa trái và biểu hiện của mysterium communis cụ thể tức là Giáo hội (PE II, 2). Để tiếp tục tiến triển theo hướng này, chúng ta có thể khởi xướng một nghiên cứu thần học và giáo luật có nhiệm vụ xác định những vấn đề cần được trình lên Đức Giáo hoàng (reservatio papalis) và những vấn đề có thể được trình lên các giám mục trong Giáo hội hay nhóm Giáo hội của các ngài. Việc này nên được làm phù hợp với Tự sắc Competentias quasdam decernere gần đây (ngày 15 tháng 2 năm 2022). Văn kiện này chỉ định “một số lĩnh vực thẩm quyền liên quan đến các điều khoản của Bộ Luật nhằm bảo vệ sự thống nhất của kỷ luật trong Giáo hội hoàn vũ, và quyền quản trị trong các Giáo hội địa phương và các tổ chức Giáo hội” trên cơ sở “động lực hiệp thông Giáo hội” (lời nói đầu). Ngay cả các qui chuẩn giáo luật cũng nên được phát triển theo phong cách hiệp hành bởi những người có trách nhiệm và thẩm quyền liên quan trong Giáo hội và nên được phép chín muồi như hoa trái của sự phân định trong Giáo hội.
135. Tông hiến Praedicate Evangelium đã định hình việc phục vụ của Giáo triều Rôma theo một ý nghĩa hiệp hành và sứ mạng. Tông hiến nhấn mạnh rằng việc phục vụ ấy “không được đặt ở giữa Đức Giáo hoàng và các giám mục, nhưng phục vụ cả hai, theo các phương thức phù hợp với bản chất của mỗi bên” (PE I. 8). Việc thực hiện nó phải thúc đẩy sự hợp tác lớn hơn giữa các thánh bộ và khuyến khích các bộ này lắng nghe các Giáo hội địa phương. Trước khi công bố các văn kiện qui chuẩn quan trọng, các bộ được khuyến dụ mở một cuộc tham vấn với các Hội đồng Giám mục và những cơ cấu tương ứng của các Giáo hội Đông phương tự trị (sui iuris). Phù hợp với lý chứng về sự minh bạch và trách nhiệm giải trình như đã nêu trên, các hình thức đánh giá công việc của Giáo triều có thể được hình dung. Một sự đánh giá như vậy, trong nhãn giới hiệp hành và sứ mạng, cũng có thể được mở rộng tới các Đại diện Giáo hoàng. Các chuyến viếng thăm ad limina Apostolorum là đỉnh cao của mối liên hệ giữa các giám mục của các Giáo hội địa phương với Giám mục Rôma và những cộng sự thân cận nhất của ngài tại Giáo triều Rôma. Nhiều giám mục mong muốn rằng cách thức tiến hành các chuyến viếng thăm này sẽ được xem xét lại để biến chúng thành một cơ hội trao đổi cởi mở và lắng nghe lẫn nhau ngày càng hơn. Trong lưu ý đến các nền văn hóa và bối cảnh đa dạng của các Hồng y, và vì lợi ích của Giáo hội, thật quan trọng việc các thành viên của Hồng y đoàn phải hiểu biết rõ hơn về nhau và mối dây hiệp thông giữa các ngài phải được thúc đẩy. Tính hiệp hành phải là nguồn cảm hứng cho sự hợp tác của các ngài với sứ vụ Phêrô và cho sự phân định mang tính tập đoàn của các ngài trong các Hội nghị thường kỳ và bất thường.
136. Thượng Hội đồng Giám mục được thấy là một trong những nơi rõ ràng nhất trong đó tính hiệp hành và tính tập đoàn phải được thực hành. Thượng Hội đồng được thánh Phaolô VI thiết lập như một hội nghị các giám mục được triệu tập để hỗ trợ Giáo hoàng Rôma trong sự chăm sóc của ngài đối với toàn thể Giáo hội. Ngày nay, được chuyển thành một tiến trình theo từng giai đoạn bởi Tông hiến Episcopalis Communio, nó thúc đẩy các mối tương quan thiết yếu giữa Dân Thiên Chúa, giám mục đoàn và Đức Giáo hoàng. Toàn thể Dân thánh của Thiên Chúa, các giám mục được giao phó một phần Dân Chúa, và Giám mục Rôma sẽ tham gia đầy đủ vào tiến trình Thượng Hội đồng, mỗi người theo chức năng riêng của mình. Sự tham gia này được thể hiện rõ trong thành phần đa dạng của Hội nghị Thượng Hội đồng tập hợp xung quanh Đức Giáo hoàng, phản ánh tính Công giáo của Giáo hội. Đặc biệt, như Đức thánh cha Phanxicô đã giải thích, thành phần của Hội nghị Thượng Hội đồng Thường lệ XVI này “không chỉ là một sự kiện bất ngờ ngẫu nhiên. Nó diễn tả một cách thực thi thừa tác vụ giám mục nhất quán với Truyền thống sống động của các Giáo hội và với giáo huấn của Công đồng Vatican II” (Tham luận tại Cuộc họp toàn thể thứ nhất của Khóa Hội nghị thứ hai Thượng Hội đồng Giám mục thường kỳ XVI, ngày 2 tháng 10 năm 2024). Thượng Hội đồng giám mục, vẫn giữ bản chất giám mục của mình, đã thấy và trong tương lai sẽ còn thấy – trong sự tham gia của các thành viên khác của Dân Thiên Chúa – “dạng thức mà thẩm quyền giám mục được kêu gọi thực hiện trong một Giáo hội nhận thức mình có tính tương quan về mặt cấu tạo, và do đó có tính hiệp hành” (ibid) cho sứ mạng. Trong việc đào sâu căn tính của Thượng Hội đồng Giám mục, thật thiết yếu là mối tương quan giữa sự tham gia của tất cả mọi người (Dân thánh của Thiên Chúa), tác vụ của một số người (tập đoàn giám mục), và vai trò chủ tọa của một người (người kế vị Thánh Phêrô) hiện lộ và được hiện thực cụ thể trong suốt tiến trình Thượng Hội đồng và trong các hội nghị chung.
137. Một trong những hoa trái ý nghĩa nhất của Thượng Hội đồng 2021-2024 là nhiệt tâm đại kết cao độ. Nhu cầu tìm ra “một hình thức thực thi Quyền tối thượng […] vốn tự mở ra cho một tình hình mới” (UUS 95) là một thách thức cơ bản cả đối với một Giáo hội có tính hiệp hành và sứ mạng lẫn đối với sự hiệp nhất Kitô giáo. Thượng Hội đồng hoan nghênh việc Bộ Thăng tiến sự Hiệp nhất Kitô giáo gần đây công bố tài liệu “Giám mục Rôma: Quyền tối thượng và tính Hiệp hành trong các cuộc Đối thoại Đại kết và trong các Hồi đáp cho Thông điệp Ut Unum Sint”, mở ra những con đường để nghiên cứu thêm. Tài liệu cho thấy rằng việc thăng tiến sự hiệp nhất Kitô giáo là một khía cạnh thiết yếu trong sứ vụ của Giám mục Rôma và hành trình đại kết đã thúc đẩy một sự hiểu biết sâu sắc hơn về điều này. Những đề xuất cụ thể chứa trong tài liệu này – về việc đọc lại hay chú giải chính thức các xác định tín lý của Công đồng Vatican I liên quan đến Quyền tối thượng, về một sự phân biệt rõ ràng hơn giữa các trách nhiệm khác nhau của Giáo hoàng, về việc thúc đẩy tính hiệp hành trong Giáo hội và trong mối tương quan của Giáo hội với thế giới, và về việc tìm kiếm một mẫu thức hiệp nhất dựa trên một Giáo hội học hiệp thông – cung ứng những triển vọng đầy hứa hẹn cho hành trình đại kết. Hội nghị Thượng Hội đồng này hy vọng rằng tài liệu nói trên sẽ phục vụ như một cơ sở để suy nghĩ thêm với các Kitô hữu khác, “tất nhiên là cùng nhau”, về việc thực thi Sứ vụ Hiệp nhất của Giám mục Rôma như một “việc phục vụ của tình yêu thương được tất cả các phía liên quan nhìn nhận” (UUS 95).
138. Sự tham gia rất phong phú của các Đại biểu anh em đến từ các Giáo hội và các Cộng đồng Kitô giáo khác tại Hội nghị Thượng Hội đồng này mời gọi chúng ta chú ý nhiều hơn đến các thực hành có tính hiệp hành của các đối tác đại kết của chúng ta, cả ở phương Đông lẫn phương Tây. Đối thoại đại kết là nền tảng cho việc phát triển và nhận hiểu tính hiệp hành và sự hiệp nhất của Giáo hội. Nó thúc giục chúng ta phát triển các thực hành hiệp hành đại kết, bao gồm các hình thức tham vấn và phân định về các vấn đề cấp bách cùng quan tâm, như khả năng có thể là việc cử hành một Thượng Hội đồng đại kết về loan báo Tin Mừng. Nó cũng mời gọi chúng ta cùng nhau chịu trách nhiệm về mình là ai, mình làm gì và mình dạy gì. Điều này có thể khả thi nhờ ở sự hiệp nhất của chúng ta dưới một Phép Rửa cung ứng cho chúng ta động lực của hiệp thông, tham gia và sứ mạng, và làm sống động căn tính của chúng ta là Dân Thiên Chúa.
139. Vào Năn Thánh 2025, chúng ta cũng sẽ kỷ niệm Công đồng Nicaea, Công đồng Đại kết đầu tiên, tại đó Kinh Tin Kính hợp nhất tất cả các Kitô hữu đã được hình thành. Việc chuẩn bị và cùng nhau kỷ niệm 1700 năm sự kiện này nên là một cơ hội để cùng nhau đào sâu và tuyên xưng đức tin của chúng ta vào Chúa Kitô và đưa vào thực hành các hình thức hiệp hành giữa các Kitô hữu thuộc mọi truyền thống. Đây cũng là cơ hội để khởi động những sáng kiến táo bạo cho một ngày Lễ Phục sinh chung để chúng ta có thể cử hành sự Phục sinh của Chúa vào cùng một ngày, như sẽ xảy ra vào năm 2025 nếu đẹp ý Chúa. Điều này sẽ mang lại sức mạnh lớn hơn cho sứ mạng rao giảng về Chúa, Đấng là sự sống và ơn cứu độ của toàn thế giới.
Phần V – “THẦY CŨNG SAI ANH EM”
Hình Thành Một Dân Cho Tinh Thần Môn Đệ Thừa Sai
Chúa Giêsu lại nói với các ông: “Bình an cho anh em. Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga 20,21-22).
140. Vào buổi chiều Phục sinh, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ món quà cứu độ là sự bình an của Người và đưa họ vào chia sẻ sứ mạng của Người. Sự bình an của Chúa nói lên sự sống viên mãn, sự hòa hợp với Thiên Chúa, với anh chị em, và với công trình tạo dựng. Sứ mạng của Người là rao giảng Triều đại Thiên Chúa, trao ban cho mọi người, không trừ ai, lòng thương xót và tình yêu của Chúa Cha. Cử chỉ tinh tế đi kèm với lời của Đấng Phục sinh gợi nhớ những gì Thiên Chúa đã làm lúc khởi đầu. Giờ đây, trong Căn Gác Thượng, với hơi thở của Chúa Thánh Thần, công trình tạo dựng mới bắt đầu: một dân tộc gồm những môn đệ thừa sai được sinh ra.
141. Dân Thánh của Thiên Chúa cần được đào tạo đúng đắn để họ có thể làm chứng cho niềm vui của Tin Mừng và lớn lên trong việc thực hành tính hiệp hành: trước hết, trong sự tự do của con cái Thiên Chúa khi đi theo Chúa Giêsu Kitô, được chiêm nghiệm trong cầu nguyện và được nhận ra nơi những người nghèo. Tính hiệp hành hàm ý một nhận thức sâu sắc về ơn gọi và sứ mạng, nguồn của một cách thức mới mẻ để sống các tương quan Giáo hội, và động lực mới liên quan đến sự tham gia. Nó cũng có nghĩa là áp dụng việc thực hành phân định của Giáo hội và một văn hóa đánh giá thường xuyên. Những điều này không thể xảy ra trừ phi được đi kèm bởi các tiến trình đào tạo chuyên biệt. Việc đào tạo trong tính hiệp hành và phong cách hiệp hành của Giáo hội sẽ giúp mọi người nhận thức rằng những ân huệ đã nhận được trong Phép Rửa phải được sử dụng vì lợi ích của tất cả mọi người: chúng không thể bị cất giấu hay bị bỏ phế.
142. Việc đào tạo các môn đệ thừa sai bắt đầu bằng – và cắm rễ trong – cuộc Khai tâm Kitô giáo. Trong hành trình đức tin của mỗi người, có sự gặp gỡ với nhiều người, nhiều nhóm và cộng đoàn nhỏ đã giúp thúc đẩy mối tương quan của họ với Chúa và trong sự hiệp thông của Giáo hội: cha mẹ và các thành viên gia đình, cha mẹ đỡ đầu, các giáo lý viên và các nhà giáo dục, những người hướng dẫn phụng vụ và những người hoạt động từ thiện, các phó tế, linh mục và chính giám mục. Nhiều người trong số này đã để lại ấn tượng cho chúng ta. Đôi khi, thật không may, khi hành trình Khai tâm kết thúc, mối liên kết với cộng đoàn trở nên suy yếu và việc đào tạo bị bỏ bê. Tuy nhiên, việc trở thành những môn đệ thừa sai của Chúa không phải là điều đạt được một lần và mãi mãi. Nó đòi hỏi sự hoán cải liên tục, sự lớn lên trong tình yêu “đến tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô” (Ep 4,13) và mở lòng đón nhận các ân ban của Chúa Thánh Thần để trở nên chứng tá sống động và vui tươi cho đức tin. Đây là lý do tại sao thật quan trọng việc khám phá lại cách mà Thánh lễ Chúa nhật có sức đào tạo các Kitô hữu: “Sự viên mãn trong việc đào tạo của chúng ta chính là sự đồng hình dạng với Chúa Kitô […]: đó không phải là một quá trình tâm thần, trừu tượng, mà đúng hơn đó là một quá trình giúp chúng ta trở thành Người” (Đức Phanxicô, Desiderio desideravi, 41). Đối với nhiều tín hữu, Thánh lễ Chúa nhật là sự tiếp xúc duy nhất của họ với Giáo hội: việc bảo đảm rằng Thánh lễ được cử hành theo cách tốt nhất có thể, đặc biệt chú ý đến bài giảng và “sự tham gia tích cực” (SC 14) của mọi người, đó là điều quyết định đối với tính hiệp hành. Trong Thánh lễ, chúng ta kinh nghiệm tính hiệp hành trở nên sống động trong Giáo hội như một ân sủng được nhận từ trên cao. Ân sủng này đi trước tính hiệp hành có được xét như là kết quả những nỗ lực của chính chúng ta. Dưới sự chủ trì của một người, và nhờ vào tác vụ của một số người, tất cả mọi người đều có thể tham gia vào bàn ăn hai chiều kích là Lời và Bánh. Ân ban hiệp thông, sứ mạng, và tham gia – ba nền tảng của tính hiệp hành – được hiện thực và đổi mới trong mỗi Thánh lễ.
143. Một trong những yêu cầu nổi lên mạnh mẽ nhất và từ mọi bối cảnh trong suốt tiến trình Thượng Hội đồng, đó là việc đào tạo do cộng đoàn Kitô giáo cung ứng phải toàn diện và liên tục. Việc đào tạo như vậy không chỉ nhằm mục đích đạt được kiến thức lý thuyết, mà còn thúc đẩy khả năng cởi mở và gặp gỡ, chia sẻ và hợp tác, suy tư và phân định chung. Do đó, việc đào tạo phải liên quan tới mọi chiều kích của con người (tri thức, tình cảm, tương quan và tâm linh) và bao gồm những kinh nghiệm cụ thể được đi kèm một cách thích hợp. Trong suốt tiến trình Thượng Hội đồng, cũng có một sự nhấn mạnh rõ ràng về nhu cầu có một sự đào tạo chung và được chia sẻ, trong đó nam và nữ, giáo dân, người thánh hiến, thừa tác viên chức thánh và ứng viên cho chức thánh cùng tham gia, như thế họ có thể cùng nhau phát triển về sự hiểu biết và lòng tôn trọng lẫn nhau cũng như trong khả năng hợp tác. Điều này đòi hỏi sự hiện diện của những nhà giáo dục phù hợp và có năng lực, có khả năng chứng minh bằng cuộc sống của họ những gì họ truyền đạt qua lời nói của mình. Chỉ theo cách này, việc đào tạo mới thực sự có sức khai phóng và biến đổi. Chúng ta cũng không nên bỏ qua sự đóng góp mà các ngành sư phạm có thể mang lại để cung cấp sự đào tạo có tiêu điểm rõ, phương pháp học tập và giảng dạy cho người lớn, và sự đồng hành của các cá nhân và cộng đoàn. Do đó, chúng ta cần đầu tư vào việc đào tạo những người đào tạo.
144. Giáo hội vốn có nhiều nơi chốn và nhiều nguồn lực để đào tạo các môn đệ thừa sai: các gia đình, cộng đoàn nhỏ, giáo xứ, các đoàn thể trong Giáo hội, chủng viện và cộng đoàn tu sĩ, các học viện, những nơi phục vụ và làm việc với những người bị gạt ra bên lề, cũng như các sáng kiến thuộc sứ mạng thừa sai và tình nguyện. Trong mỗi lĩnh vực này, cộng đoàn thể hiện khả năng giáo dục về tinh thần môn đệ và đồng hành qua chứng tá. Sự gặp gỡ này thường quy tụ người ta thuộc nhiều thế hệ lại với nhau, từ những người trẻ nhất cho tới những người cao tuổi nhất. Trong Giáo hội, không ai chỉ đơn thuần nhận sự đào tạo: mọi người đều là chủ thể tích cực và có điều gì đó để trao tặng cho người khác. Lòng đạo đức bình dân cũng là một kho tàng quý giá của Giáo hội, nơi dạy dỗ toàn thể Dân Thiên Chúa trên hành trình (x. Aparecida 259. 261).
145. Trong số các hoạt động đào tạo có thể được hỗ trợ từ động lực mới của tính hiệp hành, cần đặc biệt chú ý đến việc dạy giáo lý, để ngoài chức năng là một phần của hành trình khai tâm, việc dạy giáo lý còn tiếp tục thúc đẩy mọi người đi ra trong sứ mạng. Các cộng đoàn các môn đệ thừa sai sẽ biết cách tiến hành việc dạy giáo lý dưới dấu chỉ của lòng thương xót và làm cho nó gần gũi hơn với kinh nghiệm sống của mỗi người, đưa nó đến các vùng ngoại vi hiện sinh mà không bỏ qua Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo như một điểm tham chiếu. Như thế, nó có thể trở thành một ‘phòng thí nghiệm đối thoại’ với những người nam và nữ trong thời đại chúng ta (x. Hội đồng Giáo hoàng về Cổ võ Tân Phúc âm hóa, Chỉ nam Tổng quát về Huấn giáo, 54) và soi sáng cho cuộc tìm kiếm ý nghĩa của họ. Trong nhiều Giáo hội, các giáo lý viên là nguồn lực cơ bản để đồng hành và đào tạo; ở những Giáo hội khác, việc phục vụ của họ phải được cộng đoàn trân trọng và nâng đỡ nhiều hơn, với việc vượt ra khỏi lôgic phó mặc, vốn mâu thuẫn với tính hiệp hành. Xét đến quy mô của hiện tượng di dân, thật quan trọng là việc dạy giáo lý phải thúc đẩy những tương quan quen biết lẫn nhau sâu sắc hơn giữa các Giáo hội khác nhau.
146. Ngoài các khung cảnh và các nguồn lực mục vụ chuyên biệt, cộng đoàn Kitô hữu còn hiện diện ở nhiều nơi đào tạo khác, như trong các trường phổ thông, các trường cao đẳng đào tạo nghề, và các đại học, cũng như những nơi người ta được đào tạo để dấn thân xã hội và chính trị, và trong thế giới thể thao, âm nhạc và nghệ thuật. Bất chấp sự đa dạng của các bối cảnh văn hóa vốn có những thực hành và truyền thống rất khác nhau, các trung tâm đào tạo mang tinh thần Công giáo đang ngày càng thấy mình ở tuyến đầu của một Giáo hội luôn đi ra trong sứ mạng. Được truyền cảm hứng từ các thực hành của tính hiệp hành, chúng có thể trở thành những bối cảnh màu mỡ cho các mối tương quan thân hữu và có tính tham gia. Chúng trở thành những bối cảnh làm chứng cho sự sống; trong đó, các kỹ năng và tổ chức trước hết là do giáo dân lãnh đạo, và sự đóng góp của các gia đình được ưu tiên. Đặc biệt, các trường phổ thông và các đại học Công giáo đóng vai trò quan trọng trong cuộc đối thoại giữa đức tin và văn hóa và trong việc cung cấp giáo dục đạo đức về các giá trị, cung cấp một sự đào tạo hướng đến Chúa Kitô, biểu tượng của sự sống viên mãn. Như vậy, các trường ấy có khả năng thúc đẩy một giải pháp thay thế cho các mô hình thống trị thường bị thao túng bởi chủ nghĩa cá nhân và sự cạnh tranh, do đó cũng đảm nhận một vai trò ngôn sứ. Trong một số bối cảnh, các trường ấy là nơi duy nhất mà trẻ em và thanh thiếu niên tiếp xúc với Giáo hội. Khi được truyền cảm hứng từ cuộc đối thoại liên văn hóa và liên tôn, sự tham gia giáo dục của các trường này cũng được những người thuộc các truyền thống tôn giáo khác trân trọng như một cách thức phát triển con người.
147. Việc cộng tác đào tạo phong cách hiệp hành cho tất cả những người đã chịu Phép Rửa sẽ tạo nên chân trời để hiểu và thực hành sự đào tạo chuyên biệt cần thiết cho các thừa tác vụ và các ơn gọi riêng. Để được vậy, nó phải được triển khai như một sự trao đổi các ân ban giữa các ơn gọi khác nhau (hiệp thông), theo quan điểm một việc phục vụ được thực thi (sứ mạng) và theo một phong cách tham gia và giáo dục trong tính đồng trách nhiệm có phân biệt (tham gia). Yêu cầu này, vốn hiện lộ rất rõ từ tiến trình Thượng Hội đồng, thường đòi hỏi một sự thay đổi quyết liệt về não trạng, và một cách tiếp cận mới cả đối với bối cảnh lẫn đối với quy trình đào tạo. Trên hết, nó hàm ý một sự sẵn sàng bên trong muốn được phong phú thêm nhờ gặp gỡ với các anh chị em trong đức tin, vượt qua những định kiến và những cái nhìn cục bộ. Chiều kích đại kết của đào tạo chắc chắn sẽ hỗ trợ cho sự thay đổi về mặt não trạng này.
148. Trong suốt quá trình Thượng Hội đồng, một yêu cầu được bày tỏ rộng rãi là việc phân định và đào tạo các ứng viên cho tác vụ chức thánh được tiến hành theo phong cách hiệp hành. Cần có sự hiện diện đáng kể của phụ nữ, sự hòa nhập vào cuộc sống hàng ngày của các cộng đồng, và đào tạo để có thể hợp tác với mọi người trong Giáo hội và về cách thực hành phân định trong Giáo hội. Điều này hàm ý một sự can đảm đầu tư năng lực vào việc đào tạo những nhà đào tạo. Hội nghị này kêu gọi duyệt lại Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis để hội nhập vào đó các yêu cầu của Thượng hội đồng. Các yêu cầu ấy nên được diễn dịch thành các hướng dẫn chuẩn xác để đào tạo theo tính hiệp hành. Các đường lối đào tạo nên đánh thức nơi các ứng viên niềm say mê của họ đối với sứ mạng đến với mọi dân tộc (ad gentes). Việc đào tạo các giám mục cũng cần thiết để các ngài có thể đảm nhận tốt hơn sứ mạng của mình là quy tụ trong sự hiệp nhất các ân ban của Chúa Thánh Thần, và thực thi trong phong cách hiệp hành quyền bính đã được trao cho mình. Cách thức đào tạo theo tính hiệp hành hàm ý rằng chiều kích đại kết sẽ hiện diện trong mọi khía cạnh của các nẻo đường hướng tới các thừa tác vụ chức thánh.
149. Tiến trình Thượng Hội đồng đã đặc biệt chú ý đến một số lĩnh vực cụ thể của việc đào tạo Dân Thiên Chúa trong tính hiệp hành. Lĩnh vực đầu tiên trong đó liên quan đến tác động của môi trường kỹ thuật số đối với việc học tập, sự tập trung, sự nhận thức về bản thân và thế giới, và việc xây dựng các mối tương quan liên vị. Văn hóa kỹ thuật số làm nên một chiều kích quan trọng trong chứng tá của Giáo hội trong nền văn hóa ngày nay và là một lĩnh vực sứ mạng đang hiện lộ. Điều này đòi hỏi phải bảo đảm rằng sứ điệp Kitô giáo hiện diện trực tuyến theo những cách đáng tin cậy mà không bóp méo nội dung của nó theo ý thức hệ. Mặc dù phương tiện truyền thông kỹ thuật số có tiềm năng lớn để cải thiện cuộc sống của chúng ta, nó cũng có thể gây thiệt hại và tổn thương thông qua việc bắt nạt, thông tin sai lệch, khai thác và nghiện ngập tình dục. Các tổ chức giáo dục của Giáo hội phải giúp trẻ em và người lớn phát triển các kỹ năng quan trọng để lướt web một cách an toàn.
150. Một lĩnh vực khác có tầm quan trọng lớn lao là thúc đẩy trong mọi bối cảnh Giáo hội một nền văn hóa bảo vệ, làm cho các cộng đồng thành những nơi an toàn hơn bao giờ cho các trẻ vị thành niên và những người lớn dễ bị tổn thương. Công việc trang bị cho các cấu trúc của Giáo hội những quy định và thủ tục pháp lý cho phép ngăn ngừa lạm dụng và phản ứng kịp thời với hành vi không phù hợp đã bắt đầu. Cần phải tiếp tục sự quan tâm này, cung cấp sự đào tạo cụ thể và thích đáng cho những người làm việc tiếp xúc với trẻ vị thành niên và người lớn dễ bị tổn thương, để họ có thể hành động một cách am hiểu và nhận ra các tín hiệu, thường là im lặng, của những người đang gặp khó khăn và cần được giúp đỡ. Thật thiết yếu là các nạn nhân được tiếp đón và hỗ trợ, và điều này cần được làm một cách tinh tế. Điều này đòi hỏi lòng nhân ái lớn lao và phải được làm với sự giúp đỡ của những người có năng lực. Tất cả chúng ta phải biết động lòng bởi nỗi đau khổ của họ và bày tỏ sự gần gũi mà thông qua những lựa chọn cụ thể, có sức nâng đỡ họ, trợ giúp họ và chuẩn bị một tương lai khác cho mọi người. Điều bắt buộc là trên toàn thế giới, Giáo hội phải kích hoạt và thúc đẩy một văn hóa phòng ngừa và bảo vệ, làm cho các cộng đồng trở thành nơi an toàn hơn bao giờ cho trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương. Mặc dù các bước đã được thực hiện để ngăn ngừa lạm dụng, nhưng cần phải củng cố mối quan tâm này bằng cách cung cấp sự huấn luyện và đào tạo chuyên biệt và thường xuyên cho những người làm việc với trẻ vị thành niên và người lớn dễ bị tổn thương. Các quy trình bảo vệ phải được thường xuyên giám sát và đánh giá. Các nạn nhân và những người sống sót phải được tiếp đón và hỗ trợ một cách đầy nhạy cảm.
151. Các chủ đề trong học thuyết xã hội của Giáo hội, chẳng hạn như sự dấn thân cho hòa bình và công lý, chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta và đối thoại liên văn hóa và liên tôn, cũng phải được chia sẻ rộng rãi hơn trong Dân Chúa, để hành động của các môn đệ thừa sai có thể gây ảnh hưởng đến việc xây dựng một thế giới công bằng và nhân ái hơn. Sự dấn thân bảo vệ sự sống và nhân quyền, cho một xã hội trật tự đúng đắn, cho phẩm giá của lao động, cho một nền kinh tế công bằng và hỗ trợ, và một hệ sinh thái toàn diện, đó là một phần của sứ mạng loan báo Tin Mừng mà Giáo hội được kêu gọi sống và làm cho có hiện thực trong lịch sử.
KẾT LUẬN
Một Bữa Tiệc Cho Mọi Dân Tộc
Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, có cả bánh nữa. […] Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn”. Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông, rồi cá, Người cũng làm như vậy. (Ga 21,9.12-13).
152. Phép lạ đánh bắt cá kết thúc bằng một bữa tiệc. Chúa Phục sinh yêu cầu các môn đồ vâng nghe Lời Người, thả lưới và kéo lưới vào bờ. Tuy nhiên, chính Người chuẩn bị bữa tiệc và mời họ dùng bữa. Có bánh và cá cho tất cả mọi người, giống như khi Người hóa bánh ra nhiều cho đám đông đang đói. Trên hết, có sự kỳ diệu và phấn khích trong sự hiện diện của Người, rõ ràng và sáng tỏ đến nỗi không ai cần phải đặt câu hỏi. Một lần nữa cùng ăn với họ, sau khi họ bỏ và chối Người, Chúa mời họ một lần nữa đi vào hiệp thông với Người, ghi khắc trên họ dấu chỉ của lòng thương xót vĩnh cửu của Người, mở ra tương lai. Những người tham dự vào Lễ Phục sinh này rồi sẽ tự nhận diện mình là: “những kẻ đã ăn uống với Người sau khi Người sống lại từ cõi chết.” (Cv 10,41).
153. Bằng những bữa tiệc này, Chúa Phục sinh hoàn thành hình ảnh trong ngôn sứ Isaia, với những lời đã truyền cảm hứng cho công việc của Hội nghị Thượng hội đồng này: một bữa tiệc thịnh soạn và bổ béo do Chúa chuẩn bị trên đỉnh núi, một biểu tượng của sự vui vẻ và hiệp thông dành cho tất cả mọi người (Is 25,6-8). Bữa tiệc mà Chúa chuẩn bị cho các môn đệ của Người sau Phục sinh là một dấu chỉ cho thấy bữa tiệc cánh chung đã bắt đầu. Ngay cả dù nó chỉ tìm thấy sự viên mãn của mình trên Thiên đàng, bữa tiệc của ân sủng và lòng thương xót đã được dọn cho tất cả mọi người. Giáo hội có sứ mạng mang lời loan báo tuyệt vời này đến một thế giới đang thay đổi. Trong khi được nuôi dưỡng trong Bí tích Thánh Thể bởi Mình và Máu Chúa, Giáo hội biết rằng mình không thể quên những người nghèo nhất, những người rốt hết, những người bị loại trừ, những người không biết đến tình yêu và không có hy vọng, cũng như những người không tin vào Chúa hoặc không nhận ra mình trong bất kỳ tôn giáo thiết chế nào. Giáo hội đưa họ đến với Chúa trong lời cầu nguyện, và rồi Giáo hội bước ra ngoài để gặp họ với sự sáng tạo và sự táo bạo được cảm hứng từ Chúa Thánh Thần. Tính hiệp hành của Giáo hội, vì thế, trở thành một tiếng nói ngôn sứ về xã hội, thôi thúc những nẻo đường mới trong các lĩnh vực chính trị và kinh tế, cũng như hợp tác với tất cả những ai tin vào tình huynh đệ và hòa bình trong sự trao đổi ân ban với thế giới.
154. Cảm nghiệm lại suốt quá trình Thượng Hội đồng, chúng ta đã ý thức rằng ơn cứu độ được đón nhận và được công bố vốn có tính tương quan. Chúng ta cùng nhau sống và làm chứng cho ơn cứu độ đó. Lịch sử biểu lộ chính nó với chúng ta một cách bi thảm với chiến tranh, sự ganh đua giành quyền lực, và hàng ngàn bất công và lạm dụng. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Chúa Thánh Thần đã đặt niềm khát vọng về những mối tương quan chân thực và những dây liên kết thực sự vào trong trái tim của mỗi con người. Bản thân công trình tạo dựng cũng nói về sự hiệp nhất và chia sẻ, về sự đa dạng và về những dạng thức sống được kết nối với nhau cách đa dạng. Mọi thứ đều bắt nguồn từ sự hòa hợp và hướng đến sự hòa hợp, ngay cả khi bị tàn phá bởi sự dữ. Ý nghĩa cuối cùng của tính hiệp hành là chứng tá rằng Giáo hội được kêu gọi trao cho Thiên Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần, sự hòa hợp của tình yêu đổ tràn chính Ngài, để trao chính Ngài cho thế giới. Chúng ta có thể sống sự hiệp thông có sức cứu rỗi bằng cách bước đi trên con đường hiệp hành, trong sự đan kết của các ơn gọi, đặc sủng và thừa tác vụ của chúng ta. Bằng cách lên đường gặp gỡ mọi người để mang lại niềm vui của Tin Mừng, chúng ta có thể sống sự hiệp thông có sức cứu rỗi ấy: với Thiên Chúa, với toàn thể nhân loại và toàn thể thụ tạo. Chính khi đó, chúng ta sẽ bắt đầu kinh nghiệm – bằng cách chia sẻ – bữa tiệc sự sống mà Thiên Chúa ban cho mọi dân tộc.
155. Chúng ta trao phó các kết quả của Thượng Hội đồng này cho Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ mang danh hiệu tuyệt diễm là Odigitria, ‘Mẹ chỉ bảo đàng lành’. Xin Mẹ, là Mẹ của Giáo hội, người đã giúp cộng đoàn môn đệ mới thành lập trong Căn Gác Thượng mở lòng mình ra với sự mới mẻ của Lễ Hiện xuống, dạy chúng ta biết trở thành một dân tộc của các môn đệ và các thừa sai cùng nhau bước đi, trở thành một Giáo hội hiệp hành.
Lm Lê Công Đức dịch để tham khảo
(theo bản tiếng Ý và tiếng Anh)
Viết tắt
AA Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem (18.11.1965)
AG Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes (7.12.1965)
CCEO Codex canonum Ecclesiarum Orientalium (18.10.1990)
CD Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Christus Dominus (28.10.1965)
CIC Codex iuris canonici (25.1.1983)
CV Bênêđictô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29.6.2009)
DCS Tổng thư ký Thượng Hội đồng, Tài liệu cho Giai đoạn Châu Lục (27.10.2022)
DD Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi (29.6.2022)
DN Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24.10.2024)
DV Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum (18.11.1965)
EC Phanxicô, Tông huấn Episcopalis Communio (15.9.2018)
EG Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013)
EN Thánh Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi (8.12.1975)
FT Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (3.10.2020)
GS Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes (7.12.1965)
ITC Ủy ban Thần học Quốc tế, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ mạng của Giáo hội (2.3.2018)
LG Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium (21.11.1964)
LS Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (24.10.2015)
MC Thánh Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2.2.1974)
NMI Thánh Gioan Phaolô II, Tông thư Novo Millennio Ineunte (6.1.2001)
PE Phanxicô, Tông hiến Praedicate Evangelium (19.3.2022)
SC Công đồng Vatican II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium (4.12.1963)
SRS Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialist (30.12.1987)
UR Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Unitatis Redintegratio (21.11.1964)
UUS Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Ut Unum Sint (25.5.1995)
——————————————
Xem thêm bản tiếng Pháp .