Tuần 22, ngày 145-151: Những Nỗi Thống Khổ Của Ngôn Sứ Giê-rê-mi-a | 365 ngày Hiệp hành với Lời Chúa

Ngày 145 – Những Nỗi Thống Khổ Của Ngôn Sứ Giê-rê-mi-a

Giê-rê-mi-a 36,1-32

Năm thứ tư triều Giơ-hô-gia-kim, con vua Giô-si-gia-hu, làm vua Giu-đa, có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Giê-rê-mi-a rằng:

“Ngươi hãy lấy một cuộn sách, rồi viết vào đó mọi lời Ta đã phán với ngươi liên quan đến Ít-ra-en, Giu-đa và tất cả các nước, từ ngày Ta phán bảo ngươi dưới triều Giô-si-gia-hu cho đến ngày nay.

May ra khi nghe biết tất cả những tai hoạ Ta định giáng xuống trên chúng, nhà Giu-đa sẽ trở lại, ai nấy sẽ từ bỏ con đường xấu xa của mình, và Ta sẽ tha thứ các lỗi lầm cũng như tội ác chúng đã phạm.”

Ông Giê-rê-mi-a gọi ông Ba-rúc, con ông Nê-ri-gia lại; và theo lời ông đọc, ông Ba-rúc đã viết lại tất cả những lời ĐỨC CHÚA đã phán với ông vào một cuộn sách.

Bấy giờ, ông Giê-rê-mi-a truyền lệnh cho ông Ba-rúc rằng:
“Tôi bị ngăn trở, không thể vào Nhà ĐỨC CHÚA được.

Còn ông, ông hãy đi vào Nhà ĐỨC CHÚA trong ngày ăn chay và đọc cho dân nghe những lời của ĐỨC CHÚA trong cuộn sách tôi đã đọc cho ông viết; ông lại đọc cho tất cả những người Giu-đa từ các thành khác đến, để họ cũng được nghe nữa.

May ra họ sẽ dâng lên trước nhan ĐỨC CHÚA những lời van xin mà trở lại; ai nấy sẽ từ bỏ con đường xấu xa của mình, bởi vì cơn thịnh nộ và trận lôi đình của ĐỨC CHÚA đe doạ trừng phạt dân này, thật là kinh khủng.”

Ông Ba-rúc, con ông Nê-ri-gia, đã làm đúng theo mọi điều ngôn sứ Giê-rê-mi-a truyền, là đọc những lời ĐỨC CHÚA phán được ghi trong sách, tại Nhà ĐỨC CHÚA.

Vào tháng chín năm thứ năm triều Giơ-hô-gia-kim, con vua Giô-si-gia-hu, làm vua Giu-đa, người ta công bố một thời kỳ chay tịnh trước nhan ĐỨC CHÚA cho toàn dân ở Giê-ru-sa-lem, và cho tất cả dân chúng từ các thành Giu-đa đến Giê-ru-sa-lem.

Ông Ba-rúc đọc sách ghi những lời của ông Giê-rê-mi-a tại Nhà ĐỨC CHÚA, bên phòng ông Gơ-mác-gia-hu con ông thư ký Sa-phan, tại Tiền đình thượng, ngay ở lối vào Cửa Mới Nhà ĐỨC CHÚA; ông đã đọc cho toàn dân nghe.

Ông Mi-kha-giơ-hu con ông Gơ-mác-gia-hu, con ông Sa-phan, đã nghe mọi lời ĐỨC CHÚA phán được ghi trong sách;

ông liền xuống đền vua, vào phòng viên thư ký; tại đó tất cả các thủ lãnh đang hội họp, gồm thư ký Ê-li-sa-ma, ông Đơ-la-gia-hu con ông Sơ-ma-gia-hu, ông En-na-than con ông Ác-bo, ông Gơ-mác-gia-hu con ông Sa-phan, ông Xít-ki-gia-hu con ông Kha-nan-gia-hu, cùng tất cả các thủ lãnh.

Ông Mi-kha-gia-hu tường thuật cho họ mọi điều ông đã được nghe khi ông Ba-rúc đọc sách cho dân.

 

Ngày 146 – Ông Giê-rê-mi-a ở trong hầm nước được ông E-vét Me-léc can thiệp

Giê-rê-mi-a 38,1-13

 

Ông Sơ-phát-gia con ông Mát-tan, ông Gơ-đan-gia-hu con ông Pát-khua, ông Giu-can con ông Se-lem-gia-hu, ông Pát-khua con ông Man-ki-gia đã nghe những lời ông Giê-rê-mi-a nói với dân rằng:

“ĐỨC CHÚA phán như sau: Ai ở lại trong thành này sẽ phải chết vì gươm đao, đói kém và ôn dịch; ai chạy ra ngoài đầu hàng quân Can-đê, thì ít ra cũng sống và bảo toàn được tính mạng.

ĐỨC CHÚA phán như sau: Chắc chắn thành này sẽ bị nộp vào tay đạo quân của vua Ba-by-lon; chúng sẽ chiếm được thành.”

Các thủ lãnh thưa với vua:
“Xin ngài cho giết con người ấy đi, vì những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này, mà chỉ gây tai hoạ.”

Vua Xít-ki-gia-hu nói:
“Đây ông ta đang ở trong tay các ngươi; nhà vua cũng chẳng có thể làm gì trái ý các ngươi được.”

Họ liền điệu ông Giê-rê-mi-a đi, và bỏ xuống một cái hầm nước của hoàng tử Man-ki-gia-hu, trong sân vệ binh. Họ lấy dây thừng thả ông Giê-rê-mi-a xuống. Vì trong hầm không có nước, mà chỉ có bùn, nên ông bị lún sâu.

Trong số thái giám, có ông E-vét Me-léc, người Cút; ông này đang ở trong đền vua, thì được tin người ta sẽ thả ông Giê-rê-mi-a xuống hầm nước. Bấy giờ vua đang ngồi ở cổng Ben-gia-min.

Ông E-vét Me-léc đi ra khỏi đền vua và thưa với vua rằng:
“Thưa đức vua, chúa thượng tôi, những người này làm toàn những chuyện tai ác cho ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Họ đã thả ông xuống hầm, và ông đang chết đói ở dưới ấy, vì trong thành không còn bánh nữa.”

Vua liền truyền cho ông E-vét Me-léc, người Cút rằng:
“Ngươi hãy đem theo ba mươi người ở đây, đi kéo ngôn sứ Giê-rê-mi-a lên khỏi hầm, kẻo ông chết mất.”

Ông E-vét Me-léc đem theo ba mươi người, rồi vào đền vua, đến phòng lễ phục. Ở đó, ông lấy ra những mảnh vải cũ đã rách, rồi dùng dây thừng thả xuống cho ông Giê-rê-mi-a trong hầm.

Ông E-vét Me-léc, người Cút, nói với ông Giê-rê-mi-a:
“Xin ông lấy các mảnh vải cũ đã rách này cuốn vào dây thừng rồi để dưới nách!”
Ông Giê-rê-mi-a đã làm đúng như thế.

Người ta dùng dây thừng kéo ông Giê-rê-mi-a lên và đưa ông ra khỏi giếng. Ông Giê-rê-mi-a vẫn ở lại trong sân vệ binh.

 

Ngày 147 – Những bộ xương khô

Ê-dê-ki-en chương 37, câu 1 đến câu 14

Tay ĐỨC CHÚA đặt trên tôi.
ĐỨC CHÚA dùng thần khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng;
thung lũng ấy đầy xương cốt.

Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng.
Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét.

Người bảo tôi:
“Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”
Tôi thưa:
“Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó.”

Bấy giờ, Người bảo tôi:
“Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy;
ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA.

ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy:
Đây Ta sắp cho thần khí thổi vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống.

Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi,
sẽ trải da bọc lấy các ngươi.
Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống.
Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.”

Tôi đã tuyên sấm như tôi được lệnh.
Vậy có tiếng động khi tôi đang tuyên sấm;
có sự rung chuyển và các xương xích lại gần, ăn khớp với nhau.

Tôi nhìn thì thấy trên chúng đã có gân;
thịt đã mọc lên và da đã trải ra ở bên trên,
nhưng thần khí chưa có ở nơi chúng.

Người lại bảo tôi:
“Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí;
tuyên sấm đi, hỡi con người!
Ngươi hãy nói với thần khí:
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này:
Từ bốn phương trời, hỡi thần khí,
hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh.”

Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi.
Thần khí liền nhập vào những người đã chết;
chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên:
Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể.

Bấy giờ, Người phán với tôi:
Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en.
Này chúng vẫn nói:
“Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời!”

Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm,
hãy nói với chúng:
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau:
Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi,
Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en.

Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA,
khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta.

Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh.
Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi.
Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA,
Ta đã phán là Ta làm.
Đó là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

Ngày 148 – Trẻ Em Do-Thái Tại Triều Đình Vua Na-Bu-Cô-Đô-Nô-Xo

Đa-ni-el 1,1-21

Năm thứ ba, đời vua Giơ-hô-gia-kim cai trị xứ Giu-đa, vua xứ Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo đến bao vây thành Giê-ru-sa-lem.

Chúa trao vua xứ Giu-đa là Giơ-hô-gia-kim cùng với tất cả đồ dùng của Nhà Chúa vào tay vua Na-bu-cô-đô-nô-xo. Ông này mang những thứ ấy về đền thờ các thần của ông ta ở xứ Sin-a và bỏ vào nhà kho của các thần.

Nhà vua truyền cho quan đứng đầu các thái giám là Át-pơ-nát chọn trong số con cái Ít-ra-en một vài đứa trẻ thuộc dòng dõi hoàng gia và hàng quý tộc mà dẫn về.

Những đứa trẻ này phải là những đứa không khuyết tật, diện mạo khôi ngô, đã được học mọi lẽ khôn ngoan, hiểu rộng biết nhiều, trí khôn sắc sảo, có khả năng đứng chầu trong điện vua. Ông Át-pơ-nát còn phải dạy cho chúng biết chữ viết và tiếng nói của người Can-đê.

Nhà vua dành cho chúng khẩu phần hằng ngày trong thức ăn rượu uống của nhà vua. Chúng phải được nuôi dạy ba năm, và sau thời hạn đó, phải ra mắt nhà vua.

Trong số các trẻ ấy có Đa-ni-en, Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a là những người Giu-đa.

Quan đứng đầu các thái giám đổi tên cho chúng: Đa-ni-en thành Bên-tơ-sát-xa, Kha-na-ni-a thành Sát-rác, Mi-sa-ên thành Mê-sác và A-da-ri-a thành A-vết Nơ-gô.

Phần Đa-ni-en, vì quyết tâm không để mình bị ô uế do thức ăn rượu uống của nhà vua, nên đã xin quan cho mình khỏi bị ô uế.

Chúa đã khiến cho Đa-ni-en được cảm tình của quan đứng đầu các thái giám.

Nhưng quan này nói với Đa-ni-en rằng:
“Ta sợ đức vua; vua đã chỉ định đồ ăn thức uống cho các ngươi. Vua mà thấy mặt mũi các ngươi gầy ốm hơn các bạn cùng tuổi thì chính các ngươi sẽ khiến ta mang tội trước mặt vua.”

Đa-ni-en thưa với người được quan đứng đầu các thái giám chỉ định để trông coi Đa-ni-en, Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a:

“Xin quan cứ thử các tôi tớ của quan đây trong mười ngày: cứ cho chúng tôi ăn rau uống nước, rồi quan nhìn sắc mặt chúng tôi và sắc mặt những đứa dùng thức ăn của nhà vua. Lúc đó quan thấy thế nào thì cứ xử với các tôi tớ của quan như vậy.”

Quan chấp nhận lời các cậu ấy xin và thử trong mười ngày.

Hết mười ngày, quan thấy các cậu sắc mặt hồng hào, da thịt đầy đặn hơn tất cả những đứa đã dùng thức ăn của nhà vua.

Thế là quan giám thị cất phần thức ăn rượu uống của các cậu đi và cứ cho ăn rau.

Bốn cậu bé này đều được Chúa ban ơn hiểu rộng biết nhiều về tất cả chữ nghĩa và lẽ khôn ngoan. Riêng Đa-ni-en còn được hiểu biết mọi thị kiến và điềm báo mộng.

Khi đến thời hạn phải đưa bọn trẻ ra như vua đã truyền, thì quan đứng đầu các thái giám đem chúng ra trước mặt vua Na-bu-cô-đô-nô-xo.

Nhà vua nói chuyện với chúng, và trong số các trẻ ấy không có đứa nào được như Đa-ni-en, Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a.

Thế là bốn cậu này được đứng chầu vua,

và khi vua hỏi các cậu về bất cứ điều gì cần đến sự khôn ngoan và tài trí, thì đều thấy các cậu trổi vượt gấp mười lần hơn tất cả các thầy phù thuỷ và pháp sư trong toàn vương quốc.

Đa-ni-en ở lại đó cho đến năm thứ nhất triều vua Ky-rô.

Ngày 149 – Vua Na-Bu-Cô-Đô-Nô-Xo Chiêm Bao: Pho Tượng Kỳ Quái

Đa-ni-el 2,1-24

Năm thứ hai triều vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua đã thấy chiêm bao khiến vua bối rối trong tâm hồn, không sao ngủ được.

Vua cho vời tất cả những thầy phù thuỷ, pháp sư, đồng bóng và chiêm tinh đến nói cho vua biết vua đã thấy gì trong giấc chiêm bao. Họ vào chầu vua.

Vua nói với họ:
“Ta đã thấy chiêm bao, và tâm hồn ta bối rối vì muốn biết mình đã thấy gì trong giấc chiêm bao.”

Những nhà chiêm tinh ấy tâu vua bằng tiếng A-ram:
“Thánh thượng vạn tuế. Xin thánh thượng kể cho các tôi tớ ngài giấc chiêm bao và bầy tôi sẽ giải nghĩa.”

Nhà vua trả lời họ rằng:
“Các ngươi phải hiểu rõ lệnh ta. Nếu các ngươi không nói được cho ta biết ta đã thấy gì trong giấc chiêm bao và không giải nghĩa được cho ta, thì các ngươi sẽ bị xử lăng trì và nhà các ngươi sẽ trở thành đống bùn.

Còn nếu các ngươi cho ta biết ta đã thấy gì trong giấc chiêm bao và giải nghĩa được cho ta, thì các ngươi sẽ được ta ban quà, ban tặng vật và chức trọng quyền cao. Vậy các ngươi hãy nói cho ta biết ta đã thấy gì trong giấc chiêm bao và ý nghĩa của nó là thế nào.”

Họ lại đáp rằng:
“Xin đức vua kể giấc chiêm bao cho các tôi tớ nghe, rồi chúng thần sẽ trình bày ý nghĩa giấc chiêm bao.”

Nhà vua đáp lại rằng:
“Ta biết chắc chắn các ngươi đang tìm cách kéo dài thời gian vì biết lệnh ta đã ra là

nếu các ngươi không cho ta biết được giấc chiêm bao thì tất cả các ngươi sẽ chịu chung một oán lệnh, nên các ngươi đã đem lời dối trá quanh co mà tâu trước mặt ta cho qua thời giờ. Vậy các ngươi hãy nói cho ta nghe giấc chiêm bao và như thế ta sẽ biết các ngươi có thể giải nghĩa cho ta được.”

Những nhà chiêm tinh đáp lời vua và tâu rằng:
“Không có người nào trên mặt đất này có thể tỏ bày chuyện của nhà vua, bởi vì không có vị vua nào, dù cao cả quyền uy mấy đi nữa, lại đem một chuyện như thế ra hỏi nhà phù thuỷ, pháp sư và nhà chiêm tinh.

Chuyện vua hỏi đó là chuyện khó khăn và không ai có thể trình bày trước mặt vua ngoài các bậc thần linh, mà các bậc ấy thì không ở chung với người phàm.”

Nghe thế, nhà vua nổi cơn lôi đình và truyền tiêu diệt tất cả các người thông thái ở Ba-by-lon.

Thế là lệnh được ban ra truyền giết các nhà thông thái. Và người ta tìm Đa-ni-en với các bạn để đem đi giết.

Bấy giờ ông Đa-ni-en đem lời khôn khéo nói với quan A-ri-ốc là người chỉ huy đám thị vệ đang trên đường đi giết các nhà thông thái của Ba-by-lon.

Ông Đa-ni-en thưa với viên sĩ quan của nhà vua là A-ri-ốc rằng:
“Tại sao vua lại ra lệnh vội vã thế?”

Bấy giờ quan A-ri-ốc nói cho ông Đa-ni-en biết sự việc.

Ông Đa-ni-en liền vào xin vua cho triển hạn để ông tìm ra lời giải thích cho vua.

Rồi ông Đa-ni-en về nhà kể cho các bạn là Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a biết sự việc,

và bảo họ kêu xin Đức Chúa Trời rủ lòng thương cho biết điều bí nhiệm này, để Đa-ni-en và các bạn khỏi bị tiêu diệt cùng với các nhà thông thái của Ba-by-lon.

Bấy giờ ông Đa-ni-en được mặc khải điều bí nhiệm ấy trong giấc chiêm bao ban đêm.

Ông Đa-ni-en liền chúc tụng Đức Chúa Trời bằng những lời sau đây:

“Chúc tụng danh Chúa muôn muôn đời,
vì Người là Đấng khôn ngoan và quyền năng.

Người là Đấng làm cho tứ thời bát tiết chuyển vần,
Người phế lập các vua,
Người ban sự khôn ngoan cho các nhà thông thái,
ban tri thức cho người hiểu rộng biết nhiều.

Người mặc khải điều thẳm sâu và bí ẩn:
Người biết những gì ở trong cõi tối tăm,
và ánh sáng ở với Người.

Lạy Ngài là Chúa của tổ tiên chúng con,
con cảm tạ và ngợi khen Ngài,
vì Ngài đã cho con sự khôn ngoan và sức mạnh.

Và giờ đây, Ngài đã cho con biết điều chúng con xin Ngài:
vì Ngài đã cho con biết chuyện của nhà vua.”

Thế rồi ông Đa-ni-en vào gặp quan A-ri-ốc là người đã nhận lệnh vua để tiêu diệt các nhà thông thái của Ba-by-lon.

Ông Đa-ni-en đến và nói với ông ta thế này:
“Đừng tiêu diệt các nhà thông thái của Ba-by-lon.
Hãy đưa tôi vào bệ kiến nhà vua và tôi sẽ trình bày cho vua lời giải thích.”

Ngày 150 – Đa-ni-en Giải Mộng Pho Tượng Kỳ Quái

Đa-ni-el 2,25-49

Bấy giờ quan A-ri-ốc vội vã đưa ông Đa-ni-en vào chầu vua và tâu vua thế này:
“Trong số con cái Giu-đa bị lưu đày, thần đã tìm thấy một người để trình bày cho bệ hạ lời giải mộng.”

Đáp lời ông Đa-ni-en, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa, nhà vua nói:
“Liệu ngươi có thể cho ta biết giấc chiêm bao ta đã thấy và ý nghĩa giấc chiêm bao ấy không?”

Ông Đa-ni-en trả lời:
“Điều bí nhiệm mà đức vua hỏi thì các nhà thông thái, các pháp sư, các thầy phù thuỷ và các thầy bói không thể nào trình bày cho đức vua được.

Nhưng có Đức Chúa Trời là Đấng mặc khải những điều bí nhiệm, chính Người cho đức vua Na-bu-cô-đô-nô-xo biết điều gì sẽ xảy ra sau này. Đang khi nằm trên giường, ngài đã chiêm bao và thấy trong đầu như thế này:

Tâu đức vua, khi nằm trên giường, ngài đã để trí suy nghĩ về những gì sẽ xảy ra sau này; và Đấng mặc khải các điều bí nhiệm đã cho ngài biết điều gì sẽ xảy ra.

Còn thần đây, dù chẳng thông thái hơn ai, nhưng điều bí nhiệm này đã được mặc khải cho thần, để thần trình bày cho đức vua lời giải nghĩa, ngõ hầu đức vua biết những ý nghĩ trong lòng đức vua.

Tâu bệ hạ, ngài đã có một giấc chiêm bao. Giấc chiêm bao ấy như thế này: một pho tượng, một pho tượng lớn, sáng chói, đứng sừng sững trước mặt ngài, coi thật dễ sợ.

Đầu pho tượng ấy bằng vàng ròng, ngực và hai cánh tay bằng bạc, bụng và hai bắp đùi bằng đồng,

hai bắp chân bằng sắt, hai bàn chân nửa sắt nửa sành.

Ngài đang mải nhìn thì bỗng có một tảng đá tách ra, dù không có bàn tay nào đụng tới, nó đập vào pho tượng trúng hai chân nửa sắt nửa sành, khiến hai bàn chân vỡ tan ra.

Bấy giờ tất cả cùng vỡ tan: cả sắt, sành, đồng, bạc lẫn vàng, giống như rơm rác trên sân phơi lúa mùa hè bị gió cuốn đi không để lại dấu vết gì.

Còn tảng đá làm vỡ pho tượng thì trở thành một hòn núi lớn choán hết mặt đất.

Đó là giấc chiêm bao, còn ý nghĩa của nó thì xin tâu trước bệ hạ.

Tâu bệ hạ, ngài là vua các vua, Đức Chúa Trời đã ban cho ngài vương quốc, quyền hành, thế lực và vinh quang.

Con cái loài người, thú vật ngoài đồng, chim chóc trên trời, dù chúng ở đâu thì Đức Chúa Trời cũng giao vào tay ngài và đặt ngài làm chủ tể mọi loài.

Cái đầu bằng vàng chính là ngài vậy.

Sau triều đại ngài, sẽ xuất hiện một vương quốc khác kém hơn ngài.

Rồi một vương quốc thứ ba nữa, vương quốc bằng đồng, sẽ thống trị cả mặt đất.

Còn vương quốc thứ tư vững như sắt.

Cũng như sắt nghiền nát và đập tan tất cả vương quốc đó – khác nào sắt phá vỡ – cũng sẽ nghiền nát và phá vỡ tất cả.

Bàn chân và các ngón chân mà ngài thấy nửa bằng đất sét, nửa bằng sắt là một vương quốc sẽ bị phân chia, nhưng sẽ có một phần sức mạnh của sắt, vì ngài thấy sắt pha lẫn với đất sét.

Các ngón chân phần bằng sắt, phần bằng đất sét là một vương quốc nửa mạnh nửa yếu.

Việc ngài thấy sắt pha với đất sét nghĩa là các vương quốc sẽ làm cho các chủng tộc pha lẫn với nhau, nhưng không gắn bó với nhau được, cũng như sắt không hoà lẫn được với đất sét.

Trong thời đại các vua này, Đức Chúa Trời sẽ lập một vương quốc không bao giờ bị tiêu diệt, vương quốc ấy không bị giao cho một dân khác, nhưng nó sẽ đập tan và tiêu diệt tất cả mọi vương quốc này, đến muôn đời nó sẽ đứng vững;

cũng như ngài đã thấy tảng đá bị tách khỏi núi dù không có bàn tay nào đụng tới, tảng đá ấy đập tan cả sắt, đồng, đất sét, bạc và vàng.

Thiên Chúa cao cả đã cho đức vua biết chuyện gì sẽ xảy ra sau này. Giấc chiêm bao đúng là như thế và ý nghĩa chắc chắn là như vậy.”

Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo sấp mình phủ phục trước mặt ông Đa-ni-en rồi truyền dâng lễ phẩm và hương thơm cho ông.

Đáp lời ông Đa-ni-en vua nói:
“Thiên Chúa của ngươi quả là Thần các thần, là Chúa Tể các vua, và là Đấng mặc khải những điều bí ẩn; nhờ thế ngươi mới có thể tỏ lộ điều bí ẩn này.”

Vua liền đặt ông Đa-ni-en lên chức cao và ban cho ông nhiều món quà lớn.

Vua đặt ông làm người cai quản toàn tỉnh Ba-by-lon và làm người đứng đầu các nhà thông thái của Ba-by-lon.

Ông Đa-ni-en xin nhà vua đặt các ông Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô lên trông coi tỉnh Ba-by-lon. Còn ông Đa-ni-en thì túc trực trong đền vua.

Ngày 151        Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo dựng tượng vàng

Đa-ni-el 3,1-30

Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo làm một pho tượng bằng vàng cao sáu mươi thước, ngang sáu thước, dựng trong cánh đồng Đu-ra thuộc tỉnh Ba-by-lon.
Rồi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo sai người triệu tập các thống đốc, thủ lãnh, tổng trấn, các cố vấn, các quan coi ngân khố, các luật sĩ, thẩm phán và tất cả các quan chức hàng tỉnh đến khánh thành pho tượng vua đã dựng.
Bấy giờ các thống đốc, thủ lãnh, tổng trấn, các cố vấn, các quan coi ngân khố, các luật sĩ, thẩm phán và tất cả các quan chức hàng tỉnh tập họp để khánh thành pho tượng vua đã dựng, và họ đứng trước pho tượng ấy.
Người đọc lệnh hô to:
“Lệnh cho các ngươi, hỡi mọi người thuộc mọi dân tộc, giống nòi và ngôn ngữ:
Khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn dây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi phải sấp mình thờ lạy pho tượng vàng vua đã dựng.
Kẻ nào không sấp mình thờ lạy thì tức khắc sẽ bị ném vào đống lửa đang cháy phừng phực.”
Bởi vậy, khi các dân tộc vừa nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn dây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, thì mọi người thuộc mọi dân tộc, giống nòi và ngôn ngữ đều sấp mình thờ lạy pho tượng vàng vua đã dựng.

Bấy giờ có những người Can-đê đến tố cáo người Do-thái.
Họ tâu vua: “Đức vua vạn tuế!
Chính đức vua đã truyền rằng khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn dây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, mọi người phải sấp mình thờ lạy pho tượng vàng,
và kẻ nào không sấp mình thờ lạy sẽ bị ném vào đống lửa đang cháy phừng phực.
Vậy mà có mấy người Do-thái đức vua đã đặt lên trông coi tỉnh Ba-by-lon là Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, tâu đức vua, mấy người này đã không để tâm đến ngài, chúng không phụng sự các thần của ngài, cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng.”
Bấy giờ vua nổi giận, truyền điệu Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô tới. Họ liền bị điệu ra trước mặt vua.
Vua cất tiếng nói:
“Này Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, các ngươi không phụng sự các thần của ta và không thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng nên, có đúng như vậy không?
Bây giờ khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn dây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi có sẵn sàng sấp mình thờ lạy pho tượng ta đã làm không?
Nếu các ngươi không thờ lạy thì tức khắc các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, liệu có Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi tay ta chăng?”
Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô trả lời:
“Chúng tôi không cần trả lời ngài về chuyện này.
Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài.
Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng đâu!”
Bấy giờ vua đổi sắc mặt, nổi cơn lôi đình với ba người. Vua lên tiếng truyền đốt lò lửa mạnh hơn mọi khi gấp bảy lần.
Rồi vua ra lệnh cho những người lực lưỡng nhất trong quân đội trói Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô và quăng họ vào lò lửa đang cháy phừng phực.
Bấy giờ những người này bị trói lại, vẫn mặc nguyên cả áo ngoài, áo trong, mũ nón, giày dép và bị quăng vào lò lửa.
Lệnh vua thúc bách, lửa bốc quá cao nên ngọn lửa giết chết chính những người đem họ lên miệng lò.
Còn ba người ấy là Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô rơi xuống lò lửa, mình vẫn bị trói.

Rồi giữa ngọn lửa, họ vừa đi lại, vừa ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa.
A-da-ri-a đứng giữa đám lửa và cất tiếng cầu nguyện rằng:

Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ tiên chúng con,
xin chúc tụng và ca ngợi Chúa,
cùng tôn vinh Danh Thánh mãi muôn đời.

Vì trong hết mọi việc Chúa làm cho chúng con,
Chúa đã xử công minh chính trực.
Mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin,
đường lối Chúa quả là ngay thẳng,
mọi phán quyết của Ngài thật công minh.

Ngài đã tuyên án theo công lý,
qua mọi điều Ngài bắt chúng con phải chịu,
chúng con cũng như Giê-ru-sa-lem
là thành thánh của cha ông chúng con.

Phải, Chúa đã phán quyết thật công minh
khi bắt chúng con phải chịu mọi điều ấy,
bởi vì chúng con đã phạm tội.

Quả chúng con đã phạm tội,
đã làm điều gian ác khi dám lìa xa Ngài.
Trong mọi sự, chúng con đã nặng nề sai lỗi,
đã chẳng tuân theo mệnh lệnh Ngài.

Chúng con đã bất tuân,
đã không hành động theo lệnh Ngài truyền,
nên không được hưởng nhờ ơn phúc.