SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH năm C _nhiều tác giả

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm C

Lời Chúa: Cv 15,1-2.22-29; Kh 21,10-14.22-23; Ga 14,23-29

 

 

MỤC LỤC

1. Chúa ở bên tôi

2. Chơi trò hoà bình

3. Đến và ở lại

4. Trong và ngoài tình yêu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

5. Hiện diện của kẻ vắng mặt – Thiên Phúc

6. Thánh Linh dạy dỗ

7. Dung mạo người Kitô – R. Veritas

8. Đền thờ cao quý nhất – Lm Ignatio Trần Ngà

9. Phúc cho ai biết xây dựng hoà bình

10. Ân huệ Chúa không quan niệm được

11. Hoà bình, hồng ân của Thiên Chúa

12. Ơn bình an – Flor McCarthy

13. Ánh sáng soi đường – Lm. Phạm Thanh Liêm

14. Tuân giữ lời Chúa

15. Bình an

16. Lo âu

17. Chú giải của Noel Quesson

18. Chú giải của Fiches Dominicales

19. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

 

 

 

 

 

1. Chúa ở bên tôi

 

Có một người kia chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một khu vườn, ông ta nhìn thấy chiếc kén của một loài bướm lạ. Ông ta liền ngắt cành cây và mang chiếc kén về nhà. Ít ngày sau, ông ta thấy có nhúc nhích bên trong, nhưng con bướm vẫn chưa phá được chiếc kén để bay ra ngoài. Ngày thứ hai và ngày thứ ba ông ta đều ghi nhận được như vậy, dường như không có tí tiến triển nào. Thế là ông lấy mũi dao rạch chiếc kén cho chú bướm bò ra. Thế nhưng, ông rất thất vọng vì chú bướm chỉ sống được có một lúc rồi lăn đùng ra mà chết. Về sau, một nhà sinh vật học đã cắt nghĩa cho ông hay: Thiên Chúa đã sắp xếp để con bướm phải đấu tranh mới thoát ra được khỏi chiếc kén của mình, vì nhờ đấu tranh gian khổ nó mới được phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.

Nhà sưu tầm bướm tưởng rằng dùng lưỡi dao rạch chiếc kén thì sẽ giúp cho chú bướm được thuận lợi hơn, nào ngờ làm như thế ông ta đã huỷ diệt khả năng phát triển và sinh tồn của chú bướm.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào cuộc sống hằng ngày. Thực vậy có những lúc chúng ta cảm thấy như gánh nặng cuộc đời với những khổ đau và bất hạnh đè xuống trên đôi vai nhỏ bé của chúng ta. Còn Thiên Chúa chúng ta tin yêu thì lại vắng bóng hay lánh mặt.

Chẳng hạn: trước đây chúng ta đã từng cảm nghiệm được sự bình an và hạnh phúc mỗi lần cầu nguyện, thế mà bây giờ chúng ta lại chán ngán. Hoặc lúc trước, chúng ta đã từng cảm thấy đức tin thật mạnh mẽ, khả dĩ có thể dời núi chuyển non, thế mà giờ đây, dường như nó không nhắc nổi một viên sỏi nhỏ. Chúng ta cảm thấy Chúa như bỏ rơi và không còn yêu thương chúng ta nữa.

Thực ra Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta, nhưng Ngài cũng biết rằng đã đến lúc chúng ta cần khởi đầu một giai đoạn mới để được trở nên trưởng thành. Chẳng hạn như đã đến lúc chúng ta phải nhận ra rằng việc cầu nguyện không hệ tại những cảm xúc riêng tư. Và trong những lúc tâm hồn bị chai cứng thì chúng ta lại càng phải cầu nguyện và lời cầu nguyện trong một hoàn cảnh như thế lại thường là lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất. Chính Chúa cũng đã xác quyết qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.

Đã đến lúc chúng ta phải hiểu rằng đức tin không chỉ là một cảm giác mà là một dâng hiến, một phó thác, một xin vâng với Chúa. Chúng ta chẳng khác gì chú bướm trong câu chuyện vừa nghe. Thiên Chúa muốn chúng ta phải đấu tranh gian khổ để nhờ đó chúng ta được tiến triển về phương diện thiêng liêng. Vào một thời điểm nào đó, chúng ta phải cố gắng, phải nỗ lực trong gian nan cực khổ. Trong những giây phút đen tối ấy, Chúa vẫn ở bên chúng ta, nâng đỡ chúng ta để đức tin của chúng ta được trở nên vững mạnh và tinh ròng hơn.

 

 

 

 

 

2. Chơi trò hoà bình

 

Một ông nhà văn ngồi trên ghế đá công viên, đưa mắt quan sát nhìn xem mấy em nhỏ đang chơi đùa với nhau nơi thảm cỏ. Ông lên tiếng hỏi:

– Này các em, các em đang chơi trò gì thế?

Các em trả lời:

– Chúng cháu đang chơi trò chiến tranh. Chúng cháu đang chơi trò đánh nhau.

Nghe thế, ông hơi cau mặt, gọi các em lại và giải thích:

– Tại sao các em lại cứ thích chơi trò chiến tranh, chơi trò đánh nhau. Chiến tranh và đánh nhau thì có gì là tốt đẹp. Vậy tại sao các em lại không chơi trò hoà bình.

Cả bọn tụm đầu vào nhau và bàn tán. Thấy chúng đón nhận ý kiến của mình, ông nhà văn mỉm cười hài lòng và bước đi. Tuy nhiên, chưa bước đi được bao xa, các em đã đuổi theo và hỏi:

– Bác ơi! Chơi trò hoà bình là như thế nào? Chúng cháu không biết.

Phải, làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi các em chỉ thấy người lớn chơi trò chiến tranh. Làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi trên báo chí, truyền thanh và truyền hình, các em chỉ thấy hình ảnh những người lớn bắn giết nhau. Làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi tại gia đình các em chỉ thấy các anh các chị và đôi khi ngay cả cha mẹ cũng lớn tiếng cãi cọ và mắng chửi lẫn nhau, nhiều lúc còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau nữa.

Rồi trong thực tế, bầu khí người lớn tạo ra để cho các em được phát triển, không phải là một bầu khí hoà bình, mà là một bầu khí chiến tranh. Đến bao giờ người lớn mới thực tâm tìm phương thế giải quyết những mâu thuẫn, những bất đồng với nhau. Mỗi ngày trên thế giới, người lớn đã bỏ ra hàng tỉ mỹ kim cho việc nghiên cứu và trang bị vũ khí, đang khi đó có tới tám trăm triệu người sống trong cảnh nghèo đói và túng thiếu, có tới hơn sáu trăm triệu người mù chữ. Chỉ có bốn trong số mười em sinh ra là được cắp sách đến trường cho hết bậc tiểu học. Và cứ mười em được sinh ra trong cảnh cơ hàn, thì đã có hai em bị chết đói trong năm đầu tiên.

Thế giới người lớn phải bắt tay ngay vào việc loại trừ chiến tranh, nếu họ muốn cho các em thiếu nhi noi gương họ mà chơi trò hoà bình. Đồng thời, phương thức để loại trừ chiến tranh và xây dựng hoà bình, không gì hữu hiệu hơn cho bằng sống tinh thần hoà giải.

Thực vậy, hoà bình chỉ là kết quả đương nhiên của việc hoà giải mà thôi. Chúng ta phải hoà giải với Thiên Chúa bằng việc sám hối ăn năn và lãnh nhận ơn tha thứ. Đồng thời chúng ta còn phải hoà giải với anh em bằng việc lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Chính vì thế, trong đêm giáng sinh, các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:

– Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

Và sau khi sống lại, lúc hiện ra với các môn đệ, sau lời chào chúc bình an, thì lập tức Chúa Giêsu đã trao ban cho các ông quyền cầm buộc và cởi mở. Hay nói đúng hơn, Ngài đã trao ban cho các ông quyền tha thứ, quyền hoà giải:

– Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.

Để kết thúc, chúng ta hãy cùng nhau ghi nhớ và suy gẫm lời Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assie:

– Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.

 

 

 

 

 

3. Đến và ở lại

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Khi được hỏi Đức Kitô hiện diện ở đâu, chúng ta thường nghĩ ngay tới nhà thờ, nhà Tạm. Tiếc thay lắm khi chúng ta dừng lại ở đó. Chúng ta ít nghĩ đến một lối hiện diện khác của Ngài. Không phải chỉ là ở với, ở bên, ở trước mặt, mà còn là ở trong con người yếu đuối của ta. Chúng ta ít nghĩ, vì chúng ta không dám tin vào hồng ân quá đỗi lớn lao đó.

Chính vào lúc sắp chia tay các môn đệ để về với Cha, Đức Giêsu đã long trọng loan báo chuyện Ngài ở lại: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Chúng ta sẽ đến với người ấy và sẽ làm nhà nơi người ấy” (Ga 14,23).

Đại từ Chúng Ta ở đây để chỉ Chúa Cha và Chúa Con, mà ở đâu có Chúa Cha, Chúa Con thì cũng có Thánh Thần.

Vì yêu Đức Kitô, tôi được đón nhận thế giới Ba Ngôi. Vì yêu tôi, Ba Ngôi muốn đến thăm tôi và cư ngụ tại đó. Trong tình yêu hai chiều này, thiên đàng chớm nở. Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng tôi. Thiên đàng ấm áp ở nơi nghèo hèn, bé nhỏ, nơi tâm hồn biết yêu Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài.

Đôi khi tôi cần tự hỏi Thiên Chúa có ở trong tôi không. Tôi có cảm nghiệm được chút nào sự hiện diện đó chăng? Có bao giờ tôi thờ lạy sự hiện diện đó của Ngài không?

Kitô hữu không chỉ là bạn hữu của Đức Kitô, mà còn là người có Đức Kitô nơi chính mình. Họ là những cung thánh, những nhà thờ lưu động. Họ không chỉ chứa đựng Đức Kitô như một Nhà Tạm, họ còn nên một với Ngài trong tình yêu.

Các bí tích chúng ta lãnh nhận đều nhằm mục đích làm cho tình yêu giữa ta với Đức Kitô được lớn lên.

Trước khi tôi rước lễ, Đức Kitô đã ở trong tôi rồi. Sau khi tôi rước lễ, Ngài cũng chẳng bỏ tôi. Nhưng mỗi lần rước lễ, sự hiện diện Ngài lại tăng trưởng. Ngay cả khi không thể đến nhà thờ, tôi vẫn có thể gặp Đức Kitô nơi cung lòng mình. Chỉ cần để lòng mình lắng xuống, là tôi có thể gặp Ngài và bước vào cuộc đối thoại.

“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”

Yêu mến Đức Kitô không phải chuyện dễ. Yêu một người ta chưa gặp mặt và sống xa ta 20 thế kỷ.

Giữ lời Đức Kitô chẳng phải chuyện dễ. Lời đòi chúng ta ra khỏi mình và bay lên cao.

Chính Thánh Thần sẽ giúp ta thấy Đức Kitô thật gần để có thể say mê Ngài, thấy Lời Tin Mừng trở nên sống động và bừng sáng để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh.

Hội thánh của chúng ta sẽ là một Hội thánh vô hồn, nếu chẳng có sự hiện diện của Chúa nơi lòng các tín hữu.

Gợi Ý Chia Sẻ

Trong thánh lễ, linh mục chúc bình an cho giáo dân và mời họ chúc bình an cho nhau. Bạn thấy mình có bình an hơn nhờ tham dự thánh lễ không? Theo bạn, thế nào là người có tâm hồn bình an?

Bạn có quen ai mà bạn tin là có Chúa ở trong người ấy không? Dựa vào đâu mà bạn tin như vậy?

Cầu Nguyện

Ngài đã xuống tận đáy lòng con, xin cho con chỉ tập trung vào tận đáy lòng con.

Ngài là thượng khách của lòng con, xin cho con bước vào nhà là chính đáy lòng con.

Ngài chọn cư ngụ trong lòng con, xin cho con biết ngồi yên ngay tại đáy lòng con.

Duy Ngài ở lại trong con, xin cho con biết chìm sâu xuống tận đáy lòng con.

Duy Ngài hiện diện trong lòng con, xin cho con biết xóa mình khi Ngài ở bên con.

Khi con đã gặp Ngài, không còn con và Ngài nữa.

Con chẳng là gì cả, và Ngài là tất cả.

 

 

 

 

 

4. Trong và ngoài tình yêu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

 

Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên tai gây nên những thiệt hại trầm trọng về vật chất và tinh thần. Nhưng cũng chính trong thiên tai đã xuất hiện những nét đẹp của tình người.

Qua báo đài, tôi đã thấy nhiều Đức Giám mục, Linh mục mặc quần soọc áo may-ô chèo thuyền đi thăm viếng, khích lệ các nạn nhân. Nhiều cao tăng hoà thượng vận động tín đồ Phật tử tham gia công tác cứu trợ. Nhiều nữ tu đứng ra tổ chức công việc cứu trợ có khoa học và hiệu quả. Nhiều nhà thờ, nhà chùa, tu viện trở thành nơi tiếp đón các gia đình lâm nạn. Biết bao bộ đội, công an xả thân, liều lĩnh vượt qua sóng to gió lớn để cứu hộ các nạn nhân. Cả nước hướng về những nơi hoạn nạn đã đành. Cả những anh chị em ở nước ngoài cũng đau đớn khi khúc ruột trong nước đau đớn. Nên Việt kiều ở nước ngoài cũng đã vận động quyên góp, tổ chức những đoàn cứu trợ về thăm viếng và uỷ lạo các nạn nhân bão lụt. Nhiều cơ quan thiện nguyện nước ngoài cũng nhập cuộc. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, ngôn ngữ, khuynh hướng chính trị, giai cấp đang quy tụ lại để khắc phục thảm hoạ. Toàn cầu hoá với sự bùng nổ thông tin đang làm cho các nước xích lại gần nhau. Gần gũi không chỉ về không gian, nhưng nhất là về tấm lòng. Mọi người liên đới với nhau trong việc chống lại cái ác và cùng nhau đề cao sự thiện, lòng nhân ái. Đó là dấu chỉ cho thấy Lời Chúa đang được thực hiện.

Tuần trước khi Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”, Người đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là màu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng bằng tình yêu.

Hôm nay, khi nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”, Chúa Giêsu đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giêsu không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.

Rồi xã hội sẽ chẳng còn phân biệt hữu thần với vô thần. Nhưng sẽ chỉ có một phân biệt duy nhất: hữu tâm và vô tâm. Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân. Người vô thần mà có trái tim nhân ái thì đã thuộc về Chúa. Hữu thần mà tâm hồn tàn nhẫn độc ác thì đã bị loại trừ ra khỏi Nước Chúa rồi.

Nhìn như thế, Nước Chúa thực là rộng lắm. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Giêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Giêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuôn về. Thành không có Đền Thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quý toả ánh sáng tới khắp muôn dân.

Trong số những người có trái tim, xây dựng nên thành Giêrusalem mới ấy, tôi thấy có nhiều người trong anh chị em. Trong những năm qua số người tham gia công tác từ thiện bác ái ngày càng đông. Người âm thầm, kẻ công khai. Người góp của, kẻ dâng công. Tôi thấy rõ là anh chị em đang phấn đấu để ở trong tình yêu. Tôi thấy rõ là anh chị em đang rèn luyện để trở nên người hữu tâm.

Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Giêrusalem mới cho tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Amen.

 

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Chỉ đi lễ, đi đọc kinh thôi, đã đủ làm công dân trong Nước Trời chưa? Bạn có quan tâm giúp đỡ những người kém may mắn chung quanh bạn không?

2. Bạn có phấn đấu để hãm dẹp tính ích kỷ, chia rẽ và phát triển tình yêu thương tha thứ trong tâm hồn bạn không?

3. Bạn nghĩ gì về những người ngoại đạo tốt? Họ có phải là con Chúa không?

4. Trong và ngoài Giáo hội. Trong và ngoài tinh thần. Bạn quan tâm tới điều nào hơn?

 

 

 

 

 

5. Hiện diện của kẻ vắng mặt – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

 

Có một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông đã gặp tổ kén lạ. Ông liền bứt cành cây đem kén bướm về nhà. Ít ngày sau, ông thấy nhúc nhích bên trong kén, nhưng con bướm vẫn chưa phá kén bay ra.

Hôm sau, kén lại nhúc nhích, nhưng chẳng có gì khác lạ. Lần thứ ba, vẫn thấy như trước, ông liền lấy dao rạch kén, thế là con bướm bò ra ngoài. Tuy nhiên, bướm không tăng trưởng và chẳng bao lâu thì chết.

Sau này, ông được người bạn là nhà sinh vật học cắt nghĩa như sau: Thiên nhiên đã xếp đặt cho con bướm phải đấu tranh mới thoát ra khỏi cái kén, vì nhờ đấu tranh gian khổ mà nó có thể phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.

Muốn làm cánh bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, bướm phải làm kiếp sâu lặng lẽ, cô tịch trong vỏ kén lặng lờ, khuất nẻo. Muốn làm con bướm bay trong bầu trời xanh ngắt, bướm phải là con sâu đen đủi xấu xa, vặn vẹo đau đớn trong tổ kén đợi chờ.

Để trở nên những tín hữu Kitô vững mạnh, tăng trưởng về đường thiêng liêng, chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ để tiến triển về mặt tâm linh, chúng ta cũng phải vượt qua đấu tranh thử thách. Nhưng trong những thời điểm ấy, Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta, cho dù chúng ta không nhìn thấy Người.

Lúc sắp sửa ra đi, để trấn an các tông đồ, Chúa Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Người vẫn luôn hiện diện giữa các ông và ban bình an cho các ông. Sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những kẻ yêu nhau mới nhận ra mà thôi. Từ sau biến cố Phục sinh, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại.

Người hiện diện trong những kẻ yêu mến Người: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy”.

Người hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”.

Người hiện diện không chỉ đơn độc, nhưng là hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người.

Nếu Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người; và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Chúa Giêsu và Chúa Cha.

Vì thế, Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu lời Thiên Chúa. Lời đó chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha: “Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).

Với lời hứa này, kể từ ngày Lễ Hiện Xuống đầu tiên, Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn Giáo hội hiểu thấu lời Chúa trong Kinh Thánh, để trình bày một cách sáng tỏ hơn, và để giải quyết những vấn đề mới mẻ cho từng thời đại. Vì thế mà các Công đồng liên tiếp được triệu tập dưới sự bảo trợ của Thánh Thần.

 

 

 

 

 

6. Thánh Linh dạy dỗ

 

Nếu không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ xa vời, Chúa Giêsu sẽ là một nhân vật của quá khứ, Phúc Âm sẽ chỉ là một bản văn chết, Giáo hội sẽ chỉ là một tổ chức trần gian, Giáo quyền sẽ giống như bất cứ một thứ quyền bính nào khác, việc truyền giáo sẽ chỉ là một công tác tuyên truyền, phụng vụ sẽ chỉ là một mớ nghi thức cổ xưa lỗi thời và cuộc sống theo luân lý đạo đức sẽ chỉ là kiểu cách hành động của nô lệ. Nhưng trong Chúa Thánh Thần, vũ trụ trở thành cao quí vì nước Chúa khai sinh, Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện, Phúc Âm trao ban sứ mạng và sự sống. Giáo hội thể hiện sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, Giáo quyền trở thành dụng cụ phục vụ, Phụng Vụ trở thành lễ nghi tưởng niệm diễn tả trước cuộc sống mai sau và hành động của con người trở thành thần thánh.

Tư tưởng trên đây của Đức cố Thượng Phụ Albertô, thuộc Giáo hội Chính Thống có thể giúp chúng ta hiểu được sứ điệp thần học của các bài đọc trong Chúa Nhật VI Phục Sinh hôm nay. Đó là Chúa Thánh Thần là Đấng trợ lực và hướng dẫn cuộc sống Giáo hội. Tông Đồ Công Vụ chương 15 là một trang sử đáng ghi nhớ của Giáo hội tiên khởi, bởi vì nó cho chúng ta thấy một số vấn đề quan trọng của cộng đoàn và kiểu cách Giáo hội đã giải quyết các vấn đề đó.

Trước hết là vấn đề liên quan đến chiều kích đại đồng trong khác biệt của cộng đồng dân Chúa. Các tín hữu thuộc cộng đoàn tiên khởi gồm những người gốc Do Thái cũng như không Do Thái thuộc các dân tộc khác. Trong đó, có người Hy Lạp, họ làm công tác rao truyền Tin Mừng của thánh Phaolô và Barnaba và họ đã trung thành với sứ mệnh và Tin Mừng Nước Trời cho mọi dân tôc khác.

Vấn đề hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa Hy Lạp đã được thánh Phaolô và thánh Barnaba thực thi ngay từ đầu tại Antiokia để nhận sự trợ giúp của các tín hữu Antiokia cho giáo đoàn mẹ. Họ đã rao giảng một nguyên tắc trái với tinh thần của Tin Mừng, bởi vì họ chủ trương bắt buộc những người không Do Thái, khi trở thành Kitô hữu cũng phải tuân giữ các luật lệ của Môisê và tập tục của người Do Thái như phép cắt bì chẳng hạn.

Vấn đề đã gây tranh luận sôi nổi đến độ cộng đoàn Antiokia đã yêu cầu Phaolô và Barnaba hướng dẫn phái đoàn gồm các tín hữu cộng đoàn Antiokia tuyển chọn về Giêrusalem tham khảo ý kiến với giới lãnh đạo và tín hữu của toàn giáo đoàn mẹ. Và thế là cộng đồng chung đầu tiên trong lịch sử Giáo hội được triệu tập tại Giêrusalem.

Sau khi nghe phái đoàn Antiokia trình bày và cùng với họ duyệt xét, thảo luận vấn đề trong bầu khí cầu nguyện dưới ánh sáng và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã lấy quyết định, viết thư trả lời và gởi phái đoàn đem thư tới cho các vùng Tiểu Á.

Công đồng quyết định rằng, trong giáo huấn của Chúa Giêsu đã có tất cả mọi nhân tố nòng cốt diễn tả bản chất cuộc sống và lòng tin của Kitô hữu. Đó là hoán cải tâm hồn và trung thành với giáo huấn Tin Mừng của Chúa Giêsu. Cộng đồng chung thì khuyên các tín hữu giữ ba điều sau đây:

1. Không ăn thịt ô uế, cúng bái cho các thần linh ngoại giáo.

2. Kiếng máu các súc vật chết ngạt.

3. Không sống dâm loạn.

Đây là ba luật đã có trong sách Lêvi (chương 17-18). Theo quan niệm của Do Thái giáo, niềm tin tượng trưng cho nguyên lý sự sống. Chỉ có Thiên Chúa là người có quyền trên sự sống thôi.

Kiểu cách giải quyết vấn đề trên đây của Giáo hội Kitô tiên khởi phản ánh tinh thần cộng đoàn trong Giáo hội. Giáo đoàn Antiokia cũng như giáo đoàn Giêrusalem không ủy thác cho một nhóm chuyên viên giải quyết vấn đề mà đã hội họp với nhau và trực tiếp lắng nghe trình bày vấn đề, các ý kiến thuận nghịch rồi bàn luận dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Sau cùng mới đưa ra quyết định chung, nghĩa là Chúa Thánh Thần trở thành trợ lực giới hữu trách, trợ lực Giáo hội và các vị có nhiệm vụ giải quyết, nhưng Chúa Thánh Thần không thông tin cho các vị. Bổn phận thông báo tin tức và đầy đủ và trình bày vấn đề tường tận đến từng cộng đoàn thuộc mọi thành phần trong Giáo hội.

Điều này cho thấy những đúng đắn giúp giải quyết các xung khắc, các bất đồng ý kiến trong cộng đoàn Giáo hội không phải là dùng thái độ “cả vú lấp miệng em”, hà hiếp anh chị em, dùng quyền bính mà ra lệnh hay hô hào hiệp nhất. Nhưng trước hết là dẹp bỏ tất cả mọi sợ hãi, mọi ích kỷ, mọi chủ trương cá nhân hay bè phái, mọi thái độ cuồng tín, áp đặt không nhân nhượng và chống đối nhau để ngồi lại đối thoại, bàn thảo khách quan duyệt xét vấn đề trong tinh thần cầu nguyện với tấm lòng rộng mở do ơn Chúa Thánh Thần soi sáng trong tinh thần huynh đệ chân thành, trong sáng, vô vị lợi và trong thái độ khiêm tốn thẳm sâu.

Trong Phúc Âm thánh Gioan (Ga 14,23-29), Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết sống lòng tin trọn vẹn để nên thánh và xây dựng cộng đoàn Giáo hội là thân mình mầu nhiệm của Ngài trên trần gian này. Đó là luôn biết sống yêu thương kết hiệp với Chúa Giêsu và qua Ngài yêu thương kết hợp với Thiên Chúa Cha cũng như thực hành Tin Mừng của Ngài.

Tin Mừng thánh Gioan, tuân giữ lời Chúa Giêsu là kiểu nói diễn tả con đường tu đức của Kitô hữu. Qua lời nói và con người của Chúa Giêsu, Kitô hữu biết đạt đến sự mạc khải của Thiên Chúa trên con đường tu đức ấy, họ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn chỉ bảo, dạy dỗ. Con đường tu đức của thánh Gioan không phải là một lời kêu gọi khô khan hay đạo đức luân lý hình thức tôn giáo của Chúa Giêsu một cách máy móc, mà là lời kêu mời chúng ta mở rộng tâm hồn cho Thiên Chúa là Đấng hiện diện trên trần gian này qua lời nói và con người của Chúa Giêsu.

Mở rộng tâm hồn cho Chúa là một nỗ lực đòi hỏi nhiều khiêm tốn, can đảm, từ bỏ và chiến đấu với chính con người của chúng ta, chiến đấu với các tội lỗi, các đam mê và khuynh hướng chạy theo sự dữ mà nó đã ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta.

Con đường tu đức tuân giữ lời Chúa Giêsu là con dốc rất cao, nhưng trên đỉnh con dốc đó là niềm bình an Thiên Chúa ban cho các Kitô hữu. Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh thì “an bình” ám chỉ toàn vẹn của mọi ơn mà Đấng Cứu Thế đem đến trần gian, và Ngài trao ban cho con người trong mọi chiều kích của chúng.

Và trong truyền thống Kinh Thánh, người Do Thái quan niệm những ơn ấy trong chiều kích vật chất như được đất đai, thành thị, mùa màng, chiến thắng quân sự, an ninh và che chở khỏi quân thù… Nhưng trong Tin Mừng, niềm an bình mà Thiên Chúa diễn tả trọn vẹn sự mạc khải của Thiên Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần, ơn Tin Mừng với các mối phúc và chính con người của Chúa Giêsu là thể hiện một sự trao ban trọn vẹn sự sống cho thế giới.

Niềm an bình ấy không trùng hợp với các giá trị của thế giới này, một thế giới tội lỗi, khép kín, khước từ Thiên Chúa. Niềm an bình của Thiên Chúa không giống như an bình bề ngoài giả tạo của các chế độ ý thức hệ trần gian. Các chính quyền trần gian ngưng chiến và ký thỏa hiệp vì không còn sức để chém giết nhau, chứ không phải vì muốn cho dân nước được an sinh thái bình thực sự.

Niềm an bình Thiên Chúa ban khác hẳn, loại trừ khỏi tâm hồn con người mọi thái độ hung hăng, hiếu chiến, mọi thèm khát bất chính, để làm nảy sinh ra tình yêu thương, tình bằng hữu chân thành, vô vị lợi, lòng nhân từ tha thứ và sự công chính.

Niềm an bình của Thiên Chúa là hạt giống làm phát sinh ra trời mới đất mới như được diễn tả trong chương 21 sách Khải Huyền: thành thánh Giêrusalem thiên quốc, hình ảnh Nước Trời, hình ảnh của Giáo hội vẹn toàn được thánh hóa biến đổi trong thời cánh chung như là đích tới của ơn cứu độ. Trong đó, tín hữu không còn cần một môi giới nào, kể các đền thánh và ánh sáng mặt trời, mặt trăng, bởi vì vinh quang Thiên Chúa sẽ làm ánh sáng chiếu soi họ. Nhưng trước khi đạt tới điểm thành công ấy, Giáo hội lữ hành trần thế cần được mọi thành phần của Thiên Chúa góp sức xây dựng, vun trồng và đổi mới. Và chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mệnh đó, nếu biết mở rộng cánh cửa tâm hồn cho ơn bình an của Chúa giải tỏa, Tin Mừng của Chúa Giêsu mỗi ngày trong cuộc sống để cho Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn, hoạt động như Ngài muốn. Amen.

 

 

 

 

 

7. Dung mạo người Kitô – R. Veritas

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Trong ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm lời dặn dò cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá rồi sống lại, và trở về cùng Thiên Chúa Cha. Đoạn Phúc Âm của Chúa Nhật thứ 6 Phục Sinh được trích từ Phúc Âm theo thánh Gioan chương 14,23-29 là những lời căn dặn mô tả dung mạo người Kitô qua mọi thời đại. Người Kitô trước hết phải là người sống vì tình yêu Chúa Kitô, là kẻ yêu mến Chúa Kitô. Và vì tình yêu này không phải là một lời nói suông nhưng cần được diễn tả cụ thể bằng hành động, bằng việc tuân giữ những lời Chúa dạy, những mệnh lệnh, mà mệnh lệnh cao cả nhất gồm tóm mọi mệnh lệnh là mệnh lệnh sống tình yêu: “Như Thầy đã yêu thương các con, các con hãy biết yêu thương nhau”. Tình yêu thương là khởi đầu cho cuộc sống con người trên phương diện tự nhiên cũng như trên phương diện siêu nhiên. Vì yêu thương, Chúa đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Chúa đã cứu chuộc con người. Thừa hưởng một thân phận yếu đuối bất toàn, con người khó thực hiện mệnh lệnh tình thương. Qua bao thế hệ, bao ngàn năm, đạo tình thương được loan truyền, thế mà thế giới ngày nay, với những hận thù, căng thẳng, vẫn còn xa với văn minh tình thương. Nền văn minh của hận thù, của sự trả thù, ghen ghét và lạm dụng lẫn nhau, xem ra càng ngày càng lan rộng, xem ra như chương trình của Thiên Chúa bị thất bại. Nhưng thái độ tốt của người Kitô có lẽ không phải là thái độ phán đoán chương trình hành động của Thiên Chúa mà là thái độ phó thác và cộng tác với ơn Chúa, với chương trình của Ngài. Người Kitô, khi yêu mến Chúa nồng nhiệt chắc chắn sẽ không cô đơn, nhưng có Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn: “Ta và Cha Ta, chúng ta sẽ đến ngự trong kẻ ấy”. Đó là đặc điểm thứ hai của dung mạo người Kitô.

Ngày xưa, trong cuộc Xuất Hành khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa đến cư ngụ với dân Ngài đã chọn. Dân Chúa rất quí trọng sự hiện diện này. Sau thời lưu đày, tiên tri Dacaria loan báo đến một thời Thiên Chúa tới cư ngụ một cách đặc biệt với dân Ngài. Qua cách nói xác quyết của Chúa Giêsu, các tông đồ ngày xưa đã hiểu và chúng ta ngày hôm nay cũng vậy, chúng ta hiểu là thời mới đó đã đến. Thiên Chúa đã không cư ngụ giữa dân mà còn cư ngụ trong tâm hồn mọi tín hữu, trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn các tín hữu yêu mến Ngài là một hồng ân rất quí và cũng rất dễ bị mất, mỗi lần chúng ta sống phản nghịch với mệnh lệnh yêu thương của Chúa. Vì thế, Chúa đã có lần dùng một hình ảnh khác, hình ảnh cây nho và ngành nho, vừa cảnh tỉnh, vừa kêu gọi các tông đồ hãy cố gắng sống kết hiệp với Ngài: “Thầy là cây nho, các con là ngành nho. Ngành nào kết hợp với thân cây sẽ trổ sinh nhiều hoa trái. Những ngành sinh hoa trái còn được Thiên Chúa cắt xén để sinh hoa trái nhiều hơn nữa”. Việc Thiên Chúa cắt xén có thể hiểu như là tác động của Thiên Chúa huấn luyện hướng dẫn cuộc đời của mỗi người Kitô. Sự trưởng thành đời sống thiêng liêng không phải là một sự trưởng thành tự nhiên, như cành cây tự động lớn lên, nhưng là một sự triển nở được hướng dẫn cắt xén theo chương trình của người thợ xén, theo ý định của Thiên Chúa cho mỗi người. Không ai biết Thiên Chúa muốn cắt xén điều gì nơi cuộc đời mỗi người. Tốt hơn hết là chúng ta hãy dễ dãi, hãy sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa được mạc khải từ từ cho chúng ta qua tác động của Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu hứa ban xuống cho mỗi tín hữu, đó là đặc điểm thứ ba của dung mạo người Kitô. Là kẻ sống vâng phục theo Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi và mạc khải sự thật. Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta đến sự thật và làm cho chúng ta hiểu được sự thật mỗi ngày một trọn vẹn hơn.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được đầy đủ ơn Chúa Thánh Thần và lòng can đảm để thực hiện mệnh lệnh tình thương của Chúa mọi nơi và mọi lúc.

 

 

 

 

 

8. Đền thờ cao quý nhất – Lm Ignatio Trần Ngà

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

 

Một hôm, đang lúc đùa vui với các thiên thần, Thiên Chúa ra cho họ câu đố vui có thưởng. Ngài nói: “Ta muốn chơi trò chơi cút bắt với loài người. Các con nghĩ xem đâu là nơi ẩn trốn tốt nhất mà con người khó tìm ra Ta được?”

Thế là các thiên thần tranh nhau trả lời. Vị thì nói là Chúa hãy ẩn trốn ở đáy biển khơi, khó tìm lắm! Vị khác lại nói là Chúa hãy ẩn mình trên những đỉnh núi cao, chẳng ai leo tới đó được! Vị thì nói là Chúa hãy ẩn khuất giữa những lớp mây trời, loài người không ai nghĩ tới…” Thế nhưng Chúa chỉ cười và cuối cùng, Ngài nói: “Sai bét hết. Chỗ ẩn nấp tốt nhất Ta có thể chọn để loài người không phát hiện được Ta, đó là ngay trong tâm hồn của họ!” (phỏng theo Cha Anthony de Mello)

Ngày xưa thánh Augustino cũng khắc khoải đi tìm Chúa suốt ba mươi năm đầu đời. Ngài miệt mài tìm Chúa trong văn chương, trong triết lý, trong những học thuyết sai lầm và cả trong những đam mê thế tục… nhưng chẳng gặp được nên cảm thấy khắc khoải buồn sầu. Mãi đến tuổi ba mươi, ngài mới được ánh sáng chân lý chiếu soi và được đón nhận Chúa. Bấy giờ ngài cảm thấy an bình hạnh phúc nhưng đồng thời cũng lấy làm hối tiếc vì biết Chúa quá muộn: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng. Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài”.

Chúa ở trong con, còn con thì đi tìm Chúa bên ngoài! Thật là trớ trêu và trái khoáy, giống như ta đang để chùm chìa khoá trong túi mà lại lục lọi tìm kiếm khắp nơi.

Cũng như thánh Augustinô xưa, nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta lại đi tìm Chúa bên ngoài đang khi Chúa vẫn ở trong chúng ta.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy ta biết có Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23); lại có cả Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ cũng luôn hiện diện trong ta cùng với Chúa Cha và Chúa Con: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại những gì Thầy đã nói với anh em”.

Thế là thân xác hèn mọn của chúng ta đã được nâng lên hàng vương cung thánh đường thiêng liêng cao trọng vì đã được Ba Ngôi Thiên Chúa chọn lựa làm nơi cư ngụ của Ngài.

Đây là ngôi đền thờ thật cao cả, thật quý giá, cao vượt hơn hết mọi đền thờ khác trên thế gian.

Đem đền thờ bản thân người Kitô hữu so sánh với các đền thờ nổi tiếng do bàn tay con người xây dựng ngót hai ngàn năm qua, thì những đền thờ vật chất kia triệu lần thua kém.

Đền thờ này rất cao cả vì đây là đền thờ sống, được chính Thiên Chúa thiết kế và thi công, được dựng nên theo hình ảnh của Ngài; còn những đền thờ kia chỉ là gạch đá vô tri.

Đền thờ này rất cao cả vì được Chúa Giêsu đổ máu ra mà cứu chuộc. Không đền thờ vật chất nào được diễm phúc như thế.

Đền thờ này rất cao cả vì được Chúa Giêsu hiến thánh bằng Bí tích Rửa Tội, được Chúa Thánh Thần xức dầu qua Bí tích Thêm Sức…

Và mai đây, ngôi đền thờ này sẽ được đưa lên cõi thiên đàng vinh hiển, trong khi những đền thờ bằng vật chất nguy nga đồ sộ và nổi tiếng trên mặt đất này, cho dù được xây bằng đá quý, được nạm bằng vàng ngọc kim cương sẽ tàn lụi với thời gian.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con biết quý trọng thân xác con là ngôi đền thờ uy linh cao cả có Ba Ngôi Thiên Chúa hằng ngự trị.

Xin cho con biết thanh tẩy đền thờ đáng quý trọng này nếu nó bị ra nhơ uế vì tội lỗi và thói hư.

Xin cho con biết tôn tạo, nâng cấp đền thờ này bằng các nhân đức và phẩm chất cao đẹp.

Và nhất là xin cho con hằng biết đến gặp gỡ và kết hợp với Chúa đang hiện diện trong ngôi đền thờ là chính bản thân con. Amen.

 

 

 

 

 

9. Phúc cho ai biết xây dựng hoà bình

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos Tạ Duy Tuyền)

 

Con người từ tạo thiên lập địa luôn mang hoài bão xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng. Một thế giới không còn khổ đau, không còn đói nghèo. Người người biết lấy tình yêu để xoá bỏ những nghi kỵ, hiểu lầm, và biết nắm lấy tay nhau để dìu nhau đi tới. Đó là ước mơ thật chính đáng. Thế mà, đã bao nghìn năm vẫn mãi mong chờ trong vô vọng. Ngược dòng lịch sử, người ta chỉ thấy những dấu ấn thời gian đã qua là những đau thương, mất mát. Đói khổ và hận thù đã làm cho quá khứ đượm màu tang chế, chia ly. Thế giới có mấy khi bình yên? Con người có mấy khi hạnh phúc? Kiếp người chỉ đong đầy những lo sợ và bất an!

Với sự tiến bộ của văn minh nhân loại, người ta tưởng rằng: khi con người thoát ra khỏi lối sống hoang dã lạc hậu, sẽ làm cho thế giới an bình và lành mạnh hơn. Thế nhưng, nói theo kiểu Nguyễn Du “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Chiến tranh Trung Đông vẫn kéo dài. Chiến tranh vì quyền lực vẫn sôi bỏng hằng ngày, hằng giờ. Khủng bố, bạo loạn vẫn lan tràn khiến hàng ngàn người phải chết oan uổng, đã đẩy hàng triệu người sống trong cảnh đói khổ bần cùng. Xem ra sự văn minh đã làm cho con người vong thân đôi khi đánh mất tính người. Mới đây, cả nước đều xôn xao vì tài xế xe container đã cán đi cán lại trên một thân xác cô bé 17 tuổi đến 3 lần. Một cô giáo mần non tại Hà Nội, chỉ vì bị giáng chức đã bỏ thuốc diệt chuột vào đồ ăn để đầu độc học sinh khiến cho hơn 20 học sinh phải nhập viện cấp cứu. Mỗi ngày khi khám xét các nơi nhạy cảm như vũ trường, quán Karaoke, các tiệm hớt tóc…; người ta đã bắt được biết bao cậu ấm, cô chiêu đã bỏ trường bỏ lớp để tìm niềm vui điên loạn trong ma tuý và mại dâm. Cuộc sống vẫn nhan nhản những lừa đảo, tham ô. Vì đồng tiền bát gạo người ta vẫn chà đạp lên nhau và làm hại lẫn nhau.

Nhìn vào những gì đang diễn ra cho chúng ta thấy, dường như thế giới chỉ có hai loại người. Một loại chỉ lo đối phó với chiến tranh, với đói nghèo. Một loại chỉ lo ăn chơi, thác loạn. Kẻ không có tiền thì lo có tiền bằng muôn nghìn cách, kể cả bằng thủ đoạn gian dối, lừa bịp, bằng chiến tranh, bạo động. Kẻ có tiền lại tìm thoả mãn cho nhu cầu hưởng thụ bằng ăn chơi sa đoạ mà người ta gọi là thư giản giải trí. Có mấy ai đang toàn tâm toàn lực để xây dựng thế giới an bình và thịnh vượng? Có lẽ có, những một vài cánh én chưa đủ mang lại mùa xuân nên thế giới vẫn đầy bất an và sầu khổ!

Hôm nay Chúa Giêsu đề nghị một phương án xây dựng an bình và thịnh vượng. Phương án này khởi đi từ chính bản thân từng người. Từng người phải biết sống trong sự hoà hợp với Thiên Chúa. “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” để biết sống theo gương Thầy luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Từng người phải biết nói không với sự xấu. Từng người phải biết nghe theo tiếng nói sự thật. Sống theo sự thật sẽ giúp cho con người có một tâm hồn an bình. Nói không với sự xấu sẽ giúp cho con người sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Và sống trong sự kết hợp với Thiên Chúa, con người sẽ sống hoà hợp với nhau, vì tất cả đều là anh em cùng một cha trên trời.

Thực vậy, nhiều người dám làm những chuyện đồi bại, hãm hại lẫn nhau, sống gian dối lừa đảo, vì họ không còn tin có sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ không tin có Thiên Chúa nên họ không tin có sự thưởng phạt đời sau. Họ không tin có Thiên Chúa nên không còn nghe được tiếng nói của sự thật, tiếng nói của lương tâm ngay lành. Điều đó đã dẫn tới một đời sống tham lam, lừa đảo. Một đời sống tha hoá đến vô nhân đạo. Họ sẵn sàng chà đạp đồng loại để tìm vinh quang cho bản thân. Họ sẵn sàng lợi dụng đồng loại để kiếm tiền bằng những chuyện phi nhân, thất đức. Thế nhưng, cuộc đời họ cũng không có an bình và hạnh phúc. Họ đi tìm an bình và hạnh phúc trong những của cải thế gian, nhưng thế gian và ma quỷ không bao giờ làm cho họ thoả mãn. Họ sẽ không có một đời sống an bình nếu không đi theo chân lý và sự thật.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đường, là sự thật và là sự sống dẫn dắt chúng ta đi trong đường ngay nẻo chính. Xin dẵn dắt chúng ta sống theo sự thật và đi đến sự sống trường sinh. Nguyện xin Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ luôn gìn giữ hồn xác chúng ta khỏi mọi sự dữ và luôn nhắc nhở chúng ta sống theo chân lý và sự thật. Amen.

 

 

 

 

 

10. Ân huệ Chúa không quan niệm được

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

 

Đoạn Phúc Âm của thánh Gioan đặt chúng ta vào vị trí vượt khỏi tất cả những quan niệm loài người về Thiên Chúa. Lý trí con người chỉ có thể quan niệm về Thiên Chúa theo hai cách. Hoặc Thiên Chúa là vị thần vô định biểu lộ thần uy trong những sức mạnh vật chất như bão táp, mặt trời, v.v… và con người bày đặt ra nhiều cách thờ phượng. Hoặc quan niệm Thiên Chúa là Thượng đế vượt trên mọi hiểu biết mà loài người có được, là Đấng Tối Cao của những nhà hiền triết, quá cao siêu, quá huyền bí, con người vĩnh viễn không thể lý hội được. Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là AI. Chúa nói với chúng ta những điều mà trí khôn loài người không bao giờ có thể nghĩ tới. Thiên Chúa là sự Tuyệt đối, nhưng Người là Cha, Người can thiệp nhiều nhất như một sự hiện diện thân thiết và hay thương. Kẻ nào yêu mến Đức Giêsu Kitô, Đấng mạc khải về Cha, nếu kẻ ấy giữ lời, nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tuân giữ những điều Chúa dạy, kẻ ấy trở nên ngai toà Chúa ngự. Thiên Chúa đến với kẻ ấy, đối với kẻ ấy Thiên Chúa từ nay không chỉ là một quyền năng vô biên sáng tạo, Thiên Chúa phát động tình yêu tương giao giữa Người và kẻ ấy. Thiên Chúa đến với con người, nghĩa là Thiên Chúa thức tỉnh lương tri con người về hai điều. Thiên Chúa nói: “Con người kia, ngươi có một bản ngã, Ta là Thiên Chúa, có bản ngã riêng biệt, một Thiên Chúa có Ba Ngôi vị: Cha, Con và Thánh Thần. Giữa ngươi là một con người và Ta là Thiên Chúa, có một sự trao đổi sống động về hiểu biết và ân huệ, tức là có sự trao đổi tình yêu”. Điều ấy phải được Đức Giêsu Kitô mạc khải, chẳng có trí khôn nào của nhân loại ý niệm được.

Để chấp nhận một mạc khải trọng đại như vậy, một điều dạy dỗ từ ngoại giới có đủ không? Chúng ta thấy ngay rằng không đủ. Đức Giêsu nói với các tông đồ: Ta nói với các ngươi lúc còn lưu lại giữa các ngươi, nhưng Thánh Thần sẽ dạy các ngươi mọi sự… Các tông đồ chung sống với Đức Giêsu nhiều năm tháng. Các ông thừa thì giờ để thấm đượm giáo huấn khi nghe Người giảng dạy và quan sát cách cư xử của Người. Các ông có được một sự hiểu biết do tri thức, ở tầm các ông, nhưng sự hiểu biết do hành vi tin thì chưa có. Thật ra, điều sau đây có thể đối với chúng ta là không ngờ được: trong bữa Tiệc Ly các tông đồ chưa có được niềm tin đích thật vào Đức Giêsu. Muốn cho các ông có được hành vi tin ấy, thì phải có biến cố Phục Sinh, phải có Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Chúng ta tự chất vấn:

1) Sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa là gì? Nếu ngày nay chúng ta không dễ theo cám dỗ thờ thần tượng, có thể dễ ngã vào một thứ chủ nghĩa tri thức thúc giục chúng ta đại khái xếp Thiên Chúa vào một ý thức hệ thuộc trật tự triết lý, chính trị, xã hội, v.v… hoặc đơn giản thuộc trật tự thực tiễn giữa những tiện nghi phàm tục của chúng ta. Chúng ta có tìm biết Thiên Chúa như Đức Giêsu Kitô mạc khải cho chúng ta, một Thượng Đế thân thiết ở giữa cuộc đời chúng ta không?

2) Chúng ta có chú ý đến Chúa Thánh Thần không? Năng đọc năng nghe Phúc Âm không đủ giúp chúng ta biết Đức Giêsu Kitô. Chúng ta phải chú ý trong thâm tâm, một cách ngay thẳng, để nhận lấy giáo huấn của Ngôi Ba Thiên Chúa. Một phương thế tốt để làm công việc đó là khi gặp một đoạn Phúc Âm cho chúng ta thấy một chân lý, chúng ta hãy cố gắng ứng dụng tức khắc. Hành động này cũng phải kể là sự thành thật ngay thẳng trong tình yêu.

 

 

 

 

 

11. Hoà bình, hồng ân của Thiên Chúa

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Tháng 2 năm 1991 sau khi quân đội đồng minh đổ bộ lên Kouweit được ba ngày, thế giới đã thở phào một cái nhẹ nhõm vì mối đe dọa của một cuộc chiến tranh nguyên tử đã qua đi và nền hòa bình đã trở lại với thế giới. Hiểu như thế thì hòa bình hay bình an là không có chiến tranh. Nhưng không có chiến tranh chưa chắc là đã có hòa bình.

Sau thế chiến thứ hai, thế giới đã chia làm hai phe: Tư Bản và Cộng Sản. Trong khoảng từ năm 1945 đến năm 1990 không có một cuộc chiến tranh nào với tính cách quy mô giữa hai phe Tư Bản và Cộng Sản. Vậy mà thế giới vẫn nơm nớp lo sợ một cuộc chiến tranh. Lý do là vì cả hai phe đều chạy đua vũ trang. Tình trạng đó được gọi bằng một cái tên là “chiến tranh lạnh”. Năm 1989 sau khi khối Cộng Sản sụp đổ ở Đông Âu, người ta đã họp nhau lại tại Paris để tuyên bố cuộc chiến tranh lạnh đã kết thúc.

Như vậy trong gần một nửa thế kỷ, tuy thế giới không có một cuộc chiến tranh nào trên quy mô lớn, nhưng con người vẫn phải sống trong sự bất an. Mới đây (ngày 08.05.1995) thế giới vừa mừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít Đức và kết thúc thế chiến thứ hai. Nhưng người ta lại lo sợ trước chủ nghĩa “Phát xít mới”, trước nạn khủng bố lan tràn và các cuộc xung đột chủng tộc… Người ta nói nhân loại đang sống trong một nền “hòa bình nóng”!

Thưa anh chị em, Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta hòa bình của Ngài từ gần hai ngàn năm nay rồi. Vậy mà tại sao loài người lại không được sống trong hòa bình?

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng”.

Chúa Giêsu đã coi sự bình an như một ân huệ Ngài để lại. Ngài ban bình an của Ngài cho các môn đệ. Ngài không cầu chúc, nhưng Ngài để lại, Ngài ban tặng bình an. Ngài không ban như người ta, vì người ta không thể ban cho ai bình an, chỉ có thể cầu chúc, ước muốn được bình an mà thôi.

Vậy thì bình an của Chúa Kitô là gì? Bình an của Chúa Kitô không phải là tình trạng yêu ổn không bị khuấy động vì chống đối, vì chiến tranh. Bình an ở đây là sự sống trọn đầy, là ân huệ gồm tóm mọi ân huệ của thời đại Chúa Cứu Thế. Chính vì vậy, bình an này gắn liền với Chúa Giêsu và sự hiện diện của Ngài: “Chúa Giêsu là sự bình an của chúng ta” (Ep 2.14). Sự bình an mà Chúa Giêsu trối lại hay là chia sẻ cho chúng ta là sự bình an mà Ngài thực sự có được và nghiệm thấy một cách trọn vẹn, khi Ngài đã chiến thắng được sợ hãi đứng trước tử thần. Đó là sự bình an của Đấng đã yêu thương đến cùng (Ga 13,1), nghĩa là chấp nhận hy sinh mạng sống cho những kẻ mình yêu thương (Ga 15,13). Nói khác đi, đó là bình an mà Chúa Giêsu đã có thể chia sẻ cho chúng ta, sau khi Ngài đã thực sự chia sẻ chính thân mình Ngài cho chúng ta.

Thánh Phaolô gọi sự bình an đó là “bình an của thập giá”: “Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,24). Bình an của thập giá là bình an mà Chúa Giêsu đã phải trả bằng chính máu của Ngài để giao hòa nhân loại với Ngài và nhân loại với nhau. Nói khác đi, Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình để xóa bỏ tội lỗi nhân loại, đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét, khiến cho nhân loại từ nay được hòa giải với Thiên Chúa và trở nên một thân thể duy nhất. Bởi vậy mà Chúa Giêsu xứng đáng được gọi là “Bình an của chúng ta” (Ep 2,14-18).

Anh chị em thân mến,

Bình an là khát vọng của mọi người, ở mọi nơi và mọi thời. Nhưng thực ra có lẽ chưa bao giờ nhân loại được hưởng một sự bình an toàn diện và phổ quát. Người ta có thể dập tắt ngọn lửa chiến tranh, có thể áp đặt một nền hòa bình, ký kết những bản hòa ước. Nhưng không ai có thể hiểu thấu lòng người để có thể đem lại được sự bình an vào tận cõi sâu thẳm bên trong; bởi vì ít có ai có được bình an thực sự trong lòng mình để có thể chia sẻ cho người khác. Con người chỉ có thể xây dựng hòa bình bên ngoài, nhưng không có khả năng chế ngự, điều khiển được những đợt sóng ngầm vẫn luôn sôi sục trong đáy lòng của mỗi cá nhân. Bởi vậy, hòa bình trên thế giới từ trước đến nay thường chỉ là những nền hòa bình giả tạo, mong manh, tạm thời. Dĩ nhiên có được hòa bình đó vẫn còn tốt hơn là không.

Người Kitô hữu phải là những người tác tạo và tái tạo hào bình, những người làm chứng cho hoàn bình trong thế giới bằng cuộc sống không bạo lực và bằng cách sống đồng tâm nhất trí với nhau. Điều kiện cần thiết là phải tin vào Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời được Cha sai đến loan báo Tin Mừng bình an (Cv 10,36), phải tuân giữ Lời Chúa, và như vậy chúng ta sẽ có được sự hiện diện của Chúa trong chúng ta, như Chúa Giêsu đã tỏ cho biết: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến ở trong người ấy” (Ga 14,23). Có Chúa hiện diện trong chúng ta, chúng ta sẽ không còn lý do nào để phải lo lắng, sợ hãi. Sợ hãi, lo lắng, chứng tỏ một tâm hồn xao xuyến, chưa được ổn định, chưa được bình an và là một tâm hồn không có Chúa ngự trị.

Muốn xây dựng hòa bình của Chúa, chúng ta phải là những con người hiếu hòa, đã được ổn định và bình an trong tâm hồn. Nếu chúng ta còn để cho dục vọng làm chủ mình; nếu chúng ta còn khư khư bám víu sự sống mình một cách ích kỷ; nếu chúng ta còn có sợ mất mát những của cải, hoặc phải bảo vệ chúng để hưởng thụ; nếu chúng ta còn muốn thống trị kẻ khác, làm sao chúng ta có thể gieo rắc bình an và xây dựng được hòa bình? Muốn xây dựng hòa bình ở bình diện lớn, thiết tưởng phải bắt đầu từ những bình diện nhỏ, vừa tầm tay, từ cá nhân, trong gia đình, đến xã hội, đất nước và lan tỏa đến toàn thế giới.

Cuối cùng, phải chăng Thánh lễ là một lời cổ vũ mạnh mẽ cho hòa bình và là một sự thúc đẩy người Kitô hữu dấn thân xây dựng hòa bình? Khi chúng ta chia sẻ bình an của Chúa cho anh chị em, chúng ta cam kết sống an hòa, yêu thương và dấn thân đem lại hòa bình, an vui, hạnh phúc cho mọi người. Và lời chúc cuối lễ của vị chủ tế là chúc anh chị em ra đi với sự bình an của Chúa Kitô, ra đi mang theo một cái gì đó của Nước Thiên Chúa cho mình và cho kẻ khác.

 

 

 

 

 

12. Ơn bình an – Flor McCarthy

(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)

 

Suy Niệm 1. BÌNH AN Ở GIỮA SỰ RỐI LOẠN

Trong cuốn sách Go Down to the Potter’s House của Donagh O’Shea, ông có một câu chuyện về một ông vua có hai hoạ sĩ trong triều là hai đối thủ gay gắt. Một ngày nọ, nhà vua nói: “Trẫm quyết định một lần này cho xong để biết ai trong hai khanh là họa sĩ giỏi nhất. Hai khanh phải vẽ cùng một đề tài và như vậy, trẫm sẽ ở giữa để phán xét. Và đề tài là bình an”.

Hai người họa sĩ đồng ý, và một tuần sau trở lại với các bức tranh của họ.

Họa sĩ thứ nhất giới thiệu bức tranh của mình. Nó cho thấy một phong cảnh thơ mộng với những ngọn đồi đều đặn kề bên nhau và một mặt hồ không gợn sóng. Toàn bộ phong cảnh nói lên sự hài lòng, bình an, tĩnh lặng. Tuy nhiên, khi nhà vua nhìn vào bức tranh, ngài không thể giữ cho mình khỏi ngáp. Rồi quay lại hoạ sĩ, ngài nói; “Bức tranh của khanh đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ”.

Kế đó, họa sĩ thứ hai đã trình bày công trình của mình. Nó cho thấy một thác nước chảy ầm ầm. Lối vẽ hiện thực làm cho người ta như nghe thấy tiếng gầm của nước khi va vào các tảng đá ở bên dưới hàng trăm thước.

“Nhưng đây không phải là một cảnh bình an như trẫm đã ra lệnh”, nhà vua tức giận nói. Hoạ sĩ không đáp lại nhưng xin nhà vua tiếp tục xem. Rồi nhà vua nhận ra một chi tiết mà trước đó ngài không để ý: ở giữa các tảng đá bên dưới thác nước, có một bụi cây mọc lên với một tổ chim trên cành. Khi nhìn kỹ, nhà vua thấy có một con chim trong tổ: một con se sẻ đang ấp trứng, đôi mắt lim dim. Nó đang chờ các con nó được sinh ra, một hình ảnh bình an hoàn hảo.

Nhà vua rất thích thú khi nhìn vào điều đó. Quay lại người họa sĩ thứ hai, ngài nói: “Trẫm rất thích bức tranh khanh đã chuyển tải một điều rất quan trọng về bình an, đó là có thể sống trong bình an cả khi ở giữa cảnh ồn ào hỗn loạn của đời sống”.

Đức Giêsu đã nói về sự bình an trong suốt bữa Tiệc Ly. Người nói với các tông đồ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”.

Quả là một thời điểm lạ lùng để nói về sự bình an vì mọi sự đang rối loạn ở xung quanh Người. Làm thế nào mà lúc đó Người có thể nói về sự bình an? Bởi lẽ bình an là hiệp thông với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu đã ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Vì thế, Người có thể nói về sự bình an cả khi các kẻ thù đang siết chặt vòng vây xung quanh Người và cái chết đang ở một góc tối nào đó.

Bình an không giống như sự yên tĩnh. Yên tĩnh thuộc về ngoại giới. Bình an chủ yếu thuộc về nội giới. Bình an là một tình trạng của sự tĩnh lặng nội tâm và chỉ rõ những mối quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa và với những người khác. Một thành phần chủ yếu của bình an là sự chính trực. Vì thế đối với kẻ xấu, không có sự bình an.

Bình an là kết quả của việc người ta tín thác vào Thiên Chúa và khi ước muốn làm vui lòng Người là việc quan trọng nhất trong đời sống của người ấy. Đó là điều mà người ta có thể có cả khi ở giữa sự xáo trộn, xung đột và những vấn đề chưa giải quyết được.

Đức Giêsu ban bình an của Người cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho anh em”. Bình an mà Người ban cho chúng ta không phải là thứ bình an để chúng ta trốn tránh thực tại. Nó là một điều rất thâm sâu và độc lập với những hoàn cảnh bên ngoài. Bình an ấy vượt qua mọi sự hiểu biết, bình an mà thế gian này không thể ban cho và không một ai có thể lấy mất của chúng ta.

 

Suy Niệm 2. ĐỂ NGƯỜI RA ĐI

Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói về sự ra đi của Người. Không bị bất ngờ, các Tông đồ chìm sâu vào sự đau buồn trước viễn cảnh mất Người. Họ không muốn Người đi, họ muốn giữ Người lại. Bạn không dễ dàng chấp nhận Người mà bạn yêu thương ra đi. Ngay cả một đồ vật hoặc một con thú cưng của bạn cũng thế.

Một ngày nọ, một cậu trai trẻ thấy một con chim nhỏ run lẩy bẩy nằm dài trên mặt đất, bên dưới một cái tổ. Cảm thấy xót xa trong lòng vì chim, cậu đem chim và nhà và đặt gần lò sưởi, ở đó chim từ từ hồi sinh. Tuy nhiên, thay vì trả chim về tổ, cậu làm một cái lồng cho chim. Trong lồng, cậu cho chim nhiều thức ăn, nước uống và hơi ấm.

Chim nhỏ mau lớn và bắt đầu bay quanh lồng. Kế đó, nó bắt đầu hót. Cậu trai run lên vì sung sướng. Nhưng một ngày kia nó bắt đầu đập cánh vào cạnh lồng. Cậu liền hỏi ông cậu điều đó có nghĩa gì.

“Nó không hạnh phúc”, ông cậu đáp.

“Cháu không hiểu”, cậu trai hỏi: “Nó không có mọi thứ nó cần trong lồng hay sao?”

“Mọi thứ ngoại trừ một điều mà chim nào cũng mong ước?”

“Điều đó là điều gì?”

“Tự do” ông cậu đáp.

“Ông muốn nói là cháu phải cho nó tự do, nó muốn rời bỏ cháu”.

“Nó chỉ muốn được tự do, vì thế nó mới có thể giống như những con chim khác”.

“Nhưng làm sao cháu có thể để nó đi?” Cậu khẩn khoản. “Nó không biết gì về những nguy hiểm đang chờ nó trong thế gian. Nó có thể bị giết chết hoặc chết đói”.

“Đó là một sự liều lĩnh mà cháu phải có”.

“Nhưng cháu yêu nó nhiều đến nỗi cháu không thể để nó đi”.

“Nếu cháu thật sự yêu nó, cháu phải để nó đi”.

Cậu bé trở nên thinh lặng. Nó nhìn con chim và con chim vẫn tiếp tục vỗ cánh vào lồng. Và với mỗi cái đập cánh, nó dường như muốn nói: “Trả tự do cho tôi! Trả tự do cho tôi!”. Không thể chịu nổi nữa, cậu quyết định để chim đi.

Khi nó bay ra ngoài cửa số, nó mang theo nó một mảnh hồn của cậu. Cậu nhìn theo qua cửa sốt mở rộng một lúc lâu. Rồi thình lình, cậu nghe tiếng chim hót ở một cây gần đó. Tiếng hót này dường như vui tươi và ngọt ngào hơn trước đây. Và đây là lần đầu tiên trong nhiều tháng, cậu cảm thấy tự do: hạnh phúc và bình an.

Các tông đồ không muốn để Đức Giêsu ra đi. Nhưng khi làm thế, họ không nghĩ đến Người mà nghĩ đến họ. Người đã nói với họ như thế. Người nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14,28). Đối với Đức Giêsu, trở về với Chúa Cha là mục đích của đời sống Người. Cố giữ Người ở lại là tỏ ra không yêu mến Người.

Tình yêu chiếm hữu rất thường gặp. Một số cha mẹ có tinh thần chiếm hữu rất mạnh trong tình yêu đối với con cái họ. Đã ban cho con cái họ đời sống, họ từ khước để cho chúng sống đời sống ấy theo cách của chúng. Sự việc tương tự cũng xảy ra trong một số cuộc hôn nhân. Người ta không sẵn lòng để cho người phối ngẫu có đời sống riêng của họ.

Tình yêu chiếm hữu gây ra nhiều đau khổ và thiệt hại. Mặt khác tình yêu không chiếm hữu làm nên điều kỳ diệu cho cả đôi bên.

Sự trưởng thành, tiến bộ, thay đổi đòi hỏi một sự để cho đi, một sự buông bỏ điều gì đó mà chúng ta đang có và coi là thân thiết. Nhưng sự buông bỏ ấy là để đạt được một điều mới mẻ và tốt đẹp hơn.

Khi rời xa các Tông đồ, Đức Giêsu xác nhận rằng Người không bỏ rơi họ. Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16,7). Và Người làm đúng như lời Người đã nói. Khi chúng ta sẵn lòng để Người khác ra đi, người ấy có thể rời xa chúng ta mà không làm cho chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi. Và chúng ta cởi mở lòng mình để đón nhận một điều mới mẻ mà nếu không ra đi người ấy sẽ không đem lại cho chúng ta.

CÂU CHUYỆN KHÁC

Một số người thường hay tức giận trong lòng và kết quả là họ thiếu sự bình an trong trí óc và sự thanh thản trong linh hồn. Nhưng có những người khác có được sự bình an nội tâm và họ làm cho đời sống của họ khác hẳn.

Hai người láng giềng, James và John cày đất trên hai cánh đồng sát liền nhau. Mặt trời chói chang trên họ và trên mặt đất cứng, nhiều đá sỏi. James có tính khí hắc ám. Ông quất roi da vào lưng con ngựa. Tuy nhiên, sự đánh đập ấy càng làm cho con ngựa thêm ương ngạnh và không chịu hợp tác với chủ của nó. James tin chắc rằng lúa mì của người láng giềng sẽ mọc cao hơn của ông. Và cứ mỗi lần ông nhìn qua người láng giềng, ông có cảm tưởng rằng ông này đang cười nhạo ông.

Trái lại, John có tính khí trầm tĩnh. Ông im lặng làm việc và làm tốt, mặc dù cực nhọc và đau đớn. Thỉnh thoảng, ông dừng lại cho ngựa được nghỉ ngơi. Ông nhìn qua người láng giềng và thấy rằng ông này ở tình trạng rất dao động, ông muốn giúp đỡ người láng giềng, nhưng ông biết rằng khi ông tất bật như thế thì tốt hơn nên để ông ta làm một mình.

Sự khác nhau giữa hai người láng giềng không do những điều kiện bên ngoài của đời sống họ mà do tình trạng bên trong của tâm trí họ. Chúng ta nhìn thế giới và người khác, không được như bản chất của họ nhưng theo bản chất của chúng ta: suy bụng ta ra bụng người. John vui sống với sự bình an và thanh thản nội tâm. Còn James sống trong tình trạng rối loạn nội tâm. Không có trở ngại nào lớn hơn trong mối quan hệ tốt đẹp với người khác bằng việc mình khó chịu với chính mình.

Đức Giêsu đến để mang lại cho chúng ta sự sống và giải phóng chúng ta khỏi chính mình. Người trấn an những nỗi sợ hãi của chúng ta, và chữa lành những lo âu cùng thù hận của chúng ta, nhờ thế Người làm chúng ta có thể nhìn thế giới với một tấm lòng bình thản và một tâm hồn rộng mở.

 

 

 

 

 

13. Ánh sáng soi đường – Lm. Phạm Thanh Liêm

 

Chúng ta đang ở Chúa Nhật thứ sáu Phục sinh, thứ năm tới là lễ Chúa Thăng Thiên nếu nơi đó không dời vào Chúa Nhật tới, và Chúa Nhật tới nữa là lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

Ai yêu Ta thì giữ Lời Ta

Theo Tin Mừng, Đức Giêsu nói với các tông đồ rằng: “Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến người đó, và chúng ta sẽ đến và ở với người đó”.

Yêu mến ai, thì vâng lời người đó, làm theo điều người đó muốn. Không vâng lời ai, là không yêu người đó, ít nhất là không yêu đến độ bỏ ý riêng mà vâng lời. Thánh Y-nhã nói: “tình yêu hệ tại ở việc làm hơn tại lời nói”. Chúa Giêsu đã nói: “không phải những người nói ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ là được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Thiên Chúa” (Mt.7, 21).

Ai vâng nghe Lời Chúa, được Thiên Chúa ở cùng, và người đó trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác nữa.

Thánh Thần sẽ dạy các con mọi sự

Đấng Bàu Chữa, Thánh Thần được Thiên Chúa Cha gởi tới nhân danh Chúa Giêsu, sẽ dạy các tông đồ mọi sự, và sẽ nhắc nhớ các tông đồ những gì Đức Giêsu đã nói với các ngài.

Chính trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần, Đức Giêsu ban bình an của Ngài cho chúng ta. Bình an Chúa Giêsu ban cho chúng ta, không ai có thể cướp được, ngay cả những người quyền thế có thể giết người, cũng không thể cướp được bình an ấy. Bình an Chúa ban, là hậu quả của xác tín được Chúa thương yêu vô cùng. Người có ơn bình an Chúa ban, cảm nhận Chúa là tất cả đối với mình. Ngài là Đấng không gì có thể đánh đổi được, Ngài là “mối lợi tuyệt vời” mà người được ơn nhận ra.

Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta. Ngài dạy chúng ta mọi sự, Ngài giúp chúng ta làm những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa. Thánh Thần giúp chúng ta tự do với tất cả. Trong bài đọc thứ nhất, một số Kitô hữu gốc Do Thái đòi các Kitô hữu gốc dân ngoại phải cắt bì, vì họ cho rằng có như vậy, các tín hữu dân ngoại mới được cứu độ. Để bảo vệ và làm sáng tỏ Tin Mừng, Phao-lô và Barnabas đã quyết làm sáng tỏ vấn đề: Kitô hữu được cứu độ không do cắt bì nhưng do tin vào Đức Giêsu. Và “quyết định dưới tác động Thánh Thần” của các tông đồ, là các Kitô hữu không phải cắt bì. Thánh Thần giúp chúng ta sống trong bình an và tình yêu, chứ không sống trong sợ hãi hay nô lệ. Thánh Thần Thiên Chúa, làm chúng ta tự do đích thực.

Ánh sáng soi thành là Con Chiên

Để có thể nhìn thấy vật gì đó, vật đó cần ánh sáng chiếu rọi và hình ảnh được phản chiếu vào mắt, nhờ vậy người ta có thể nhìn được. Con Chiên là đèn soi thành, Đức Giêsu là ánh sáng, là tiêu chuẩn giúp người ta nhận định được đâu là điều hay để làm và điều xấu để tránh.

Thế gian có tiêu chuẩn riêng của nó, và những người theo thế gian sống theo tiêu chuẩn thế gian: tiền bạc, danh vọng, địa vị. Hậu quả của việc đi tìm tiền bạc, danh vọng, không là hạnh phúc đích thực. Tiền bạc, danh vọng, khoái lạc, có “xiềng xích” riêng của nó, nó có thể trói buộc con người và biến con người thành nô lệ.

Ước gì mỗi người nhận ra Đức Giêsu là “đường, sự thật và sự sống”, và để Chúa trở thành tiêu chuẩn và ánh sáng cho từng người, để chúng ta được tự do đích thực.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Theo Chúa, bạn được giải phóng khỏi nô lệ điều gì?

2. Bạn có kinh nghiệm Thiên Chúa gần gũi với bạn không? Xin bạn chia sẻ.

3. Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta! Điều nào Chúa dạy khó nhất đối với bạn? Tại sao?

 

 

 

 

 

14. Tuân giữ lời Chúa

 

Vào một buổi chiều mùa đông, thánh Antôn đang quỳ cầu nguyện trong căn phòng nhỏ bé của mình, thì bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa. Thánh nhân đứng dậy và ra mở cửa. Thấy một em bé có khuôn mặt sáng sủa đang đứng đó với chiếc bị trên vai. Thánh nhân liền hỏi:

– Em là ai?

Em bé trả lời:

– Ta là con của đức vua.

Thánh nhân hỏi tiếp:

– Vậy em từ đâu mà đến?

Em nói:

– Ta từ trời cao mà đến.

Thánh nhân tò mò:

– Thế em định tìm gì trên mặt đất này?

Em bé chớp chớp đôi mắt và trả lời:

– Ta đi ăn xin tình yêu của loài người.

Em bé ấy chính Chúa Giêsu Hài Đồng, đã hiện ra với thánh Antôn. Với chúng ta cũng vậy. Mặc dù Chúa Giêsu Hài Đồng không hiện ra một cách cụ thể dưới hình ảnh một em bé với khuôn mặt sáng sủa và chiếc bị trên vai, nhưng Ngài hiện ra trong tâm hồn chúng ta. Ngài đang đứng đó và gõ cửa. Ngài chờ chúng ta đứng dậy và ra mở cửa để van xin chúng ta một tấm tình yêu. Ngài sẽ hỏi chúng ta như ngày xưa đã hỏi Phêrô:

– Con có yêu mến Thầy không?

Dĩ nhiên, chúng ta cũng sẽ hăng hái thưa lên với Chúa như Phêrô ngày xưa:

– Có chứ, con yêu mến Chúa là cái chắc.

Thế nhưng, chúng ta phải làm thế nào để biểu lộ được tình yêu chúng ta dành cho Chúa? May mắn thay, qua đoạn Tin mừng hôm nay, chính Ngài đã chỉ cho chúng ta một phương thế chắc chắn nhất và bảo đảm nhất. Ngài nói:

– Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ những lời Thầy truyền dạy.

Thực vậy, có lần Ngài đã kể lại câu chuyện về một người cha có hai đứa con trai. Vào một buổi sáng đẹp trời, ông nói với đứa anh:

– Con hãy vác cuốc ra làm vườn nho cho cha.

Đứa anh vâng vâng dạ dạ, nhưng sau đó nó vào trong buồng và nằm ngủ miết. Ông lại nói với đứa em:

– Con hãy vác cuốc ra làm vườn nho cho cha.

Đứa em lúc đầu tỏ ra ngần ngại, nhưng sau đó nó đã vác cuốc ra vườn làm cỏ. Như thế, đứa em đã yêu thương cha nó hơn đứa anh. Một người con ngoan trong gia đình chắc chắn không phải là một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì, trái lại phải là một đứa con mau mắn, vui vẻ vâng lời cha mẹ. Đối với Chúa cũng vậy. Để yêu mến Chúa, chúng ta phải tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.

Chúng ta có nhiều cách để nói lên tình yêu thương dành cho một người nào đó. Chẳng hạn khi yêu thương ai, chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, nghĩ tốt về họ và thầm mong cho họ được nhiều may mắn. Thế nhưng, ý nghĩ và tư tưởng thì trừu tượng, khó mà kiểm chứng. Chẳng hạn khi yêu thương ai, chúng ta có thể ca tụng họ và nói tốt về họ. Thế nhưng, lời nói nhiều khi trở thành bôi bác và giả hình. Tuy nhiên, có một phương tiện chắc chắn nhất để biểu lộ tình yêu thương, đó là việc làm. Đức tin không việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết. Tình yêu không việc làm thì cũng chỉ là một tình yêu đã chết mà thôi. Chúng ta không thể chỉ cho người khác thấy một tình yêu không việc làm. Trái lại, căn cứ vào những việc làm, người ta sẽ đánh giá được tình yêu thương của chúng ta. Và đối với Chúa, việc làm đẹp lòng Ngài hơn cả, chính là tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.

Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên để soi sáng và sưởi ấm, đã cho mưa xuống để ruộng đồng được xanh tươi. Thế nhưng, muốn có được cơm gạo, bác nông phu đã phải làm lụng vất vả suốt ngày dưới ánh nắng gay gắt. Cũng vậy, để được Chúa yêu thương, chúc phúc và cứu độ, chúng ta cần phải cộng tác với Ngài, ít nữa bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, bởi vì chính Ngài đã xác quyết với chúng ta qua đoạn Tin mừng hôm nay: Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy.

 

 

 

 

 

15. Bình an

 

Thầy để lại bình an cho các con. Những lời chúc ấy thật là cần thiết và nâng đỡ, thoa dịu êm thắm lòng tôi.

Thật vậy, bình an Chúa hứa ban cho thật là cần thiết và an ủi, nhất là khi Người bảo chúng ta: “Đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Bình an Thầy ban cho anh em không phải như thế gian đã ban tặng…” Thật vậy, bình an của Chúa ban không phải là một thứ an tâm trong cám dỗ và thiếu xót, không phải là tránh lương tâm dưới áp lực của tội lỗi và tật xấu, không phải là đầu hàng để sống sai trái và bất công. Song bình an của Chúa là niềm hân hoan, vì tâm hồn được hòa giải với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa. Dù có đau khổ trong tinh thần hay thân xác, cả những lo âu trăn trở thì những đau khổ, những lo âu ấy cũng được chấp nhận, chia sẻ, và nó có một giá trị với những đau khổ của Chúa như một chia sẻ của những khó khăn và thử thách đối với người mình yêu thương.

Để được hưởng sự bình an ấy, chúng ta cần sống hòa giải với Chúa, với tha nhân và với chính mình, nghĩa là không để tội lỗi làm mình bất nhân, bất nghĩa với Chúa. Không để lòng mình bị những khuấy động sôi sục vì những ghen ghét, vì những bon chen ước muốn quyền lực, danh vọng… Chúa ban bình an cho chúng ta là để chúng ta mang bình an của Ngài cho tha nhân, để chúng ta trở thành dụng cụ bình an của Chúa đối với người khác.

Như vậy, bình an của Chúa nói đây là một lời trăn trối cuối cùng của Ngài khi Ngài sắp ra đi chịu chết và cũng là bình an của niềm vui khi Ngài sống lại. Bình an đó là điều quan trọng, vì đó là ơn của Chúa Thánh Thần ban, nó chính là hạnh phúc đích thật mà chúng ta đang tìm kiếm. Bình an đó Thiên Chúa còn muốn cho mọi người, cho mọi quốc gia trên thế giới đều được hưởng mà chúng ta gọi là hòa bình.

Hòa bình ấy trong bài giảng ngày 29.9.1979 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói: “Trong lịch sử nhân loại chưa bao giờ hòa bình được người ta tha thiết ước mong như ngày nay, nhưng rồi mỗi ngày người ta phải chứng kiến nó đang bị phá hoại và tiêu hủy, hòa bình là kết quả quan liêu, là thái độ tụ tập lại. Đó là những sản phẩm bận tâm về luân lý đạo đức của những nguyên tắc đạo đức dựa trên Phúc âm và được củng cố bởi Phúc âm”.

Hòa bình phải dựa trên con người, dựa trên ý thức bất khả xâm phạm của con người, dựa trên sự chấp nhận nguyên tắc bình đẳng giữa con người với con người, dựa trên tình huynh đệ lẫn nhau, sự kính trọng và yêu thương con người, chỉ vì tất cả con người là hình ảnh của Thiên Chúa.

 

 

 

 

 

16. Lo âu

 

Nếu có một người nào đó hỏi chúng ta: “Ông bà, anh chị có yêu mến Chúa không?”. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng trả lời được ngay. Không những trả lời được mà còn cho người đó hỏi một câu dư thừa, vớ vẩn. Nhưng nếu người đó hỏi thêm một câu nữa: “Làm sao ông bà, anh chị biết được mình yêu mến Chúa, hay dựa vào bằng chứng nào để tôi biết được ông bà, anh chị yêu mến Chúa?”. Câu hỏi này anh chị em trả lời được không? Dĩ nhiên là được. Nhưng có lẽ sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau.

Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời thay cho chúng ta, Chúa đã chỉ dạy cho chúng ta một dấu hiệu, một bằng chứng, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa hay không?: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy”. Một câu Kinh Thánh đó thôi đủ định nghĩa thế nào là người yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu hay bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa. Và đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa nhiều hay ít. Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu xem: Chúa bảo chúng ta tuân giữ lời Chúa, vậy lời Chúa ở đâu? Và chúng ta phải tuân giữ Lời Chúa thế nào?

Lời Chúa ở đâu? Nếu trả lời một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nói: Lời Chúa chứa đựng trong sách Thánh, tức là trong Kinh Thánh. Nhưng nếu hiểu rộng ra, chúng ta có thể nói: Lời Chúa còn chứa đựng trong thánh truyền, tức là một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của các giáo phụ. Lời Chúa còn chứa đựng trong phụng vụ, tức là những gì Giáo hội sống và thể hiện trong sinh hoạt phụng tự. Và Lời Chúa còn chứa đựng trong đời sống của Giáo hội, tức là những giáo huấn của các công đồng, các Đức Giáo hoàng, các giám mục. Tóm lại, Kinh Thánh, Thánh truyền, phụng vụ và giáo huấn của Giáo hội, đó là những kho tàng chứa đựng Lời Chúa. Nhưng thông thường và cụ thể, mỗi khi nói đến Lời Chúa, chúng ta thường hiểu là Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng.

Tại sao chúng ta phải giữ lời Chúa và giữ lời Chúa thế nào? Chúng ta giữ lời Chúa để chứng tỏ lòng chúng ta yêu mến Chúa. Yêu mến ai, chúng ta muốn ở gần người đó, tâm sự trò chuyện quan hệ mật thiết với người đó, thì chúng ta đối với Chúa cũng vậy, và còn hơn thế nữa, là để chúng ta nên giống Chúa. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Gần bạn hiền sẽ nên hiền. Và tục ngữ Tây phương cũng nói: “Anh nói cho tôi biết, anh đọc sách gì, anh bầu bạn với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào”. Chúng ta cần tâm sự với Chúa Giêsu, chúng ta muốn nên giống Chúa, nay Chúa đã khuất mặt, thì chỉ còn một cách là đọc Lời Ngài, suy gẫm cuộc đời Ngài, chúng ta sẽ học được những ý tưởng, những tâm tình của Ngài. Vì thế, ai muốn quan hệ mật thiết với Chúa, muốn nên giống Chúa, chỉ còn một cách là luôn luôn đọc lại bộ Tân Ước, nhất là Tin Mừng, để thấy rõ chân tướng của Chúa Kitô mà học hỏi bắt chước.

Cũng thế, người ta thường nói: “Có đầy trong lòng mới trào ra ngoài miệng”. Do đó, muốn suy nghĩ, nói năng, hành động, phản ứng như Chúa, thì điều quan trọng là phải có đầy Chúa trong tâm hồn, phải thấm nhiễm tinh thần của Chúa, phải in sâu hình ảnh dịu hiền của Chúa, những gương sáng Chúa đã thực hiện, lời Chúa dạy dỗ, giáo huấn vào đầu óc của mình. Để được như vậy, chỉ có cách duy nhất là hằng ngày chăm chỉ đọc Lời Chúa trong Kinh Thánh và suy niệm. Nhờ đó Lời Chúa dần dần chi phối đời sống chúng ta và trở thành nguyên tắc hướng dẫn mọi hành vi, cử chỉ của chúng ta và biến đổi chúng ta nên giống Chúa.

Tuy nhiên, chúng ta đọc và suy niệm Lời Chúa là rất tốt rồi, nhưng điều quan trọng hơn nữa, là chúng ta phải áp dụng, phải thực hành Lời Chúa, vì đây là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa: chúng ta sẽ là kẻ không yêu mến Chúa khi chúng ta làm không đủ tiêu chuẩn như Lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là người ghét Chúa khi chúng ta làm sai Lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là kẻ phản bội Lời Chúa nếu chúng ta tránh né, coi thường hay lười biếng không làm những việc đáng phải làm. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không tuân giữ Lời Chúa, thì có khác gì đứa con gọi dạ bảo vâng, nhưng không chịu làm theo lời cha mẹ dạy. Đó là thứ tình yêu giả hình và là thứ tình yêu đầu môi chót lưỡi mà thôi. Tình yêu phải được thử thách, phải được chứng nghiệm bằng việc làm… Vì thế, yêu Chúa thì phải thực hành Lời Chúa. Thực hành Lời Chúa dù ở nhà thờ hay ở nhà mình, nơi làm việc hay ngoài đường phố, chợ búa. Nếu như mọi người đều nhiệt tình áp dụng và thực hành Lời Chúa thì nhân loại này yêu thương nhau biết mấy. Nhưng đáng tiếc, Lời Chúa dạy: “Các con hãy yêu thương nhau”, chúng ta chưa thực hành đến nơi đến chốn.

Yêu mến Chúa là giữ Lời Chúa truyền dạy. Giữ ở đây không hiểu theo nghĩa thụ động, nghĩa là đem chôn giấu Lời Chúa, nhưng phải hiểu theo nghĩa tích cực, nghĩa là có sáng kiến đem Lời Chúa ra thực hành trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nhưng Lời Chúa là lời nào? Tất cả lời của Chúa gồm tóm rất gọn trong một tiếng này, đó là “yêu”. Yêu Chúa với tình yêu của một người con hiếu thảo và yêu đồng loại với tình yêu như Chúa đã yêu chúng ta.

Đàng khác, sống ở trần gian, ai cũng phải trải qua những giây phút lo âu. Lo âu về tương lai, về gia đình, về con cái, về tiền bạc, về công việc làm ăn, về sức khỏe… Lời Chúa hôm nay an ủi và khích lệ chúng ta đừng xao xuyến và sợ hãi. Chúng ta hãy dâng lên Chúa mọi lao công vất vả, mọi lo lắng buồn phiền. Chúng ta hãy phó thác cuộc đời mình cho Chúa và xin Chúa ban sự bình an. Bởi vì có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

 

 

 

 

 

17. Chú giải của Noel Quesson

 

Chúng ta tiếp tục suy niệm “diễn từ giã biệt” của Đức Giêsu vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh. Đoạn văn mà chúng ta sắp đọc được Gioan giới thiệu như câu trả lời của Đức Giêsu trước câu hỏi của Giuđa: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Toàn thể văn chương Do Thái thời Đức Kitô đều minh chứng cho ta thấy, những người đồng thời với Người luôn ngóng đợi một Đấng Mêsia mạnh về chính trị, có thể chiến thắng cách hiển nhiên mọi quân thù và cưỡng bức các đối thủ phải phục lụy. Đó cũng là nỗi mong chờ của các tông đồ. Và chúng ta cũng không lường ước mong như thế nào?

Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ Lời Thầy.

Đó là cách biểu lộ duy nhất mà Thiên Chúa đã quyết định thể hiện: người đến cư ngụ giữa những kẻ tiếp đón Người và tin tưởng nơi Người. Nói cách khác, Người chỉ được người ta nhận ra Người “hiện diện”, nhờ những kẻ yêu mến Người. Tình yêu không cưỡng chế ai, không thúc ép ai.

Cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật nào đó của một người, tuy “vắng mặt” về thể lý, chúng ta cũng có thể nhận ra trong khung tình yêu nhân loại, nếu chúng là chân thực: bất giác chúng ta sẽ nhận thấy đang khi nói, trong một cuộc đối thoại nội tâm, với người yêu, với bạn hữu, con cái, hôn phu, người chồng.

Đó là sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có kẻ yêu thương mới nhận ra.

Chúng ta vẫn thường phàn nàn về sự vắng mặt của Thiên Chúa, về thái độ im lặng của Người. Người tín hữu luôn đụng chạm với lời thách đố của kẻ vô thần: “Thiên Chúa của bạn ở đâu?” (Tv 42,4). Nhưng ngày nay, câu chất vấn đó có chiều hướng đi tới một chối từ Giáo hội, phủ nhận nếp sống cộng đoàn của Giáo hội: người ta cảm phục Đức Giêsu như một mô hình của nhân loại; người ta không chống đối Người điều gì; nhưng người ta gạt Người sang một bên, như thể không có Người, bằng cách khỏa lấp qua một lời tuyên bố quá dễ dãi: “Tôi tin nhưng không hành đạo”. Do đó, rõ ràng là có một ranh giới thực sự giữa “người môn đệ đích thực của Đức Giêsu với mọi người khác, dù họ rất có cảm tình với nhân vật Giêsu Nadarét. Đức Giêsu mạnh dạn quả quyết rằng, Người không chỉ là một kẻ chết, dù là tuyệt vời, của lịch sử xa xưa, cũng không chỉ là mẫu người đẹp mà sứ điệp có thể làm người ta phải suy nghĩ. Nhưng Người là một con người đang sống đang hoạt động, hôm nay vẫn còn hiển nhiên. Nhờ sự Phục sinh, Đức Giêsu Nadarét, con người lịch sử, đã bước vào thế giới xác định của Thiên Chúa: điều đó minh chứng. Người cũng trở nên kẻ đồng thời với mọi người.

“Đức Kitô của bạn ở đâu?”.

Chính Đức Giêsu trả lời: Đức Giêsu của bạn, chưa khi nào chúng tôi đã gặp thấy.

Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.

Đức Giêsu quả quyết, từ giờ trở đi Người đang hiện diện nhờ những kẻ yêu mến Người, nhờ các tín hữu đích thực mà Người đang cư ngụ trong họ.

Khi Đức Giêsu tuyên bố những lời đó, quả thực chỉ còn ít giờ nữa là Người sẽ phải chết. Người là Đền thờ mới, được dựng lại nội trong ba ngày (Ga 2,19-22), Đền thờ mà ở đó người Do Thái thường cảm thấy một sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ở đây, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Người dám quả quyết rằng, kể từ lúc Người ra đi, thì sự hiện diện không diễn tả thành lời này, chắc chắn bị che giấu, nhưng sẽ được bảo chứng nhờ các Kitô hữu.

Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.

Giữa những người yêu thương nhau, cần có sự lắng nghe, đối thoại, nói năng, trao đổi. Trong tình yêu của chúng ta, không có gì tệ hại hơn là “không biết lắng nghe”, không chịu nói năng.

Ở đây Đức Giêsu mạc khải cho ta một trong những chìa khóa mở tới đời sống Kitô hữu đích thực: Suy niệm Lời Chúa, như một dấu chỉ của sự Hiện Diện. Đó là một sự kiện. Chúng ta không có sự hiện diện thể lý hữu hình của Đức Giêsu, nhưng đối với kẻ yêu mến Người, thì thật là kỳ diệu, họ đã nhận được tư tưởng, lời nói của Người. Chúng ta cần ghi nhận, Đức Giêsu không chỉ nói đến một lời được đón nhận trong tâm trí, mà là một lời ta phải tuân giữ một lời phải đưa ra thực hành, một lời nhờ luôn “sống động” sẽ giúp kẻ ban lời cũng thực sự hiện diện. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh, sống động… có thể được “nhận biết” cách cụ thể (điều đó hẳn là thế được!) trong đời sống của các môn đệ đích thực.

Cũng như Đức Giêsu Nadarét là nơi thể hiện sự hiện diện và lời của Chúa Cha (“Lời anh em nghe thấy không phải là của Thầy”), cũng vậy từ giờ trở đi, các Kitô hữu, Giáo hội chính là nơi đó. Thật là trách nhiệm lớn lao.

Các điều đó Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải là một “sự vật” nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.

Thánh Thần không thêm gì cho Đức Giêsu, cũng như Đức Giêsu không thêm gì cho Chúa Cha. Đó là ba, nhưng chỉ một! Không có “ba Thiên Chúa”. Thiên Chúa là một. Người Israel vẫn nói như thế. Và Hồi giáo sẽ lặp lại như vậy. Dù có những khác biệt không tránh khỏi trong ngôn ngữ diễn tả, nhưng Kitô hữu không thể nói ngược lại đức tin cốt yếu trên đây. Chúa Cha, chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình của Người. Đức Giêsu, cũng chính là Thiên Chúa, đã hiện diện, nói năng và hành động để cứu chuộc con người. Thánh Thần, cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Đức Giêsu và Chúa Cha.

Thánh Thần… Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy.

Chúng ta chiêm ngắm trong tâm hồn họa phẩm Chúa Ba Ngôi do Rublev vẽ một cách tuyệt đẹp, hiện được lưu giữ trong bảo tàng viện Trétiakov tại Mát-cơ-va và người ta từ khắp nơi trên thế giới thường đến tham quan. Ba Ngôi vị đều có cánh, thông hiệp với nhau rất mật thiết, chung quanh một cái bàn kỳ diệu, làm nên một trong vòng tròn duy nhất và hoàn hảo, do ba đường chu vi của chúng tạo nên Chúa Cha, “vượt trên tất cả”, hiện diện sau chiếc bàn, đang ngắm nhìn đắm đuối Người Con yêu dấu của mình, ngồi ở bên hữu và thông ban tất cả. Chúa Con, mặc áo màu da người hồng đỏ, đang để cho màu xanh của thiên tính Chúa Cha xuyên qua lấp lánh cũng nhìn đắm đuối Thánh Thần và thông ban tất cả. Nhưng mầu nhiệm của mối hiệp thông yêu thương giữa Ba Ngôi không dừng lại ở đó. Ôi, kỳ diệu thay! Trong Thánh Thần, vòng tròn tự mở ra, vì chính Thánh Thần đang ngắm nhìn và chỉ ngón tay về phía trái đất để thông ban cho trái đất tất cả. Chúa Ba Ngôi, đó là mỗi tình yêu thương mật thiết vĩnh cửu giữa ba mà chỉ là một: Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ở trong Chúa Cha, trong cùng một Thánh Thần. Do đó, Đức Giêsu đã đến dẫn đưa các môn đệ của Người vào trong “gia đình” đó nhờ Thánh Thần.

Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều. Và làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Theo Đức Giêsu, Thánh Thần là Đấng sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho nhân loại, khi giúp cho con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó là chính Đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha. Thánh Thần sẽ dạy dỗ và làm cho nhớ lại… Chính các Tông đồ tuy đã sống nhiều tháng năm với Đức Giêsu, cũng chưa có một đức tin đích thực nơi Người, vào lúc Người ra đi. Gioan thú nhận rằng, sau này ông mới nắm bắt được những gì Đức Giêsu đã nói (Ga 2, 17-22; 13, 6-19). Khi Đức Giêsu ra đi, trong một ý nghĩa nào đó, thì chưa có gì là hoàn tất, là cố định. Chính Thánh Thần sẽ giúp Giáo hội dần dần hiểu biết “điều đã được mạc khải”. Một số người nghiêm khắc đã vội ngạc nhiên vì Giáo hội “thay đổi” như họ phản đối. Nhưng rõ ràng đối với Đức Giêsu, Giáo hội còn phải thay đổi nhiều hơn do ảnh hưởng của Thánh Thần. “Thánh Thần sẽ dạy anh em và sẽ làm cho anh em nhớ lại…”. Phần lớn những Lời của Đức Giêsu chỉ được bày tỏ khi được suy gẫm và cầu nguyện trong ký ức của Giáo hội trong nhiều thế kỷ. Mọi tín điều Kinh Tin Kính đã có một quá trình lịch sử và chỉ được định tín sau một thời gian dài để cho chín muồi. Và tình trạng đó vẫn còn tiếp tục. Chúng ta có thực sự tin Thánh Thần hiện diện trong Giáo hội không? Tại sao Thánh Thần lời có thể ngừng hoạt động ở thế kỷ thứ III hay thế kỷ XV? tại Công đồng Nicê hay tại Công đồng Trentô? Ngày nay, hiển nhiên Thánh Thần vẫn đang làm việc. Đức Giêsu đã nói: “Thầy ở với anh em cho đến tận thế”. Giáo hội vẫn còn nhiều điều phải hiểu biết, phải khám phá, phải sống động. Và điều, đúng thực sự với Giáo hội, cách tổng quát, với lịch sử của mình trong thời gian vẫn còn đúng thực, cách riêng biệt, với mỗi người chúng ta: Thánh Thần còn phải giúp tôi khám phá ra nhiều điều! Trong tôi vẫn có một khả năng lãng quên không thể tưởng. Như thế, khi lời Tin Mừng được chiếu sáng cho tôi, được Thánh Thần tác động vật soi sáng, tôi đừng chần chờ thực hành và tuân giữ lời đó để sớm hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa và con người.

Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”.

Bình an! Shalom! Đó là lời chào chúc quen dùng tại Israel. Nhưng ở đây, đó là lời chào chúc Phục sinh của Đức Giêsu sống lại: bình an phát xuất từ sự hiện diện của Đấng được coi là Vắng Mặt, nhưng Đấng đó không ngừng trở lại đối với những kẻ yêu mến Người… Một thứ bình an mà thế gian không thể nào nhận ra được, vì thế gian không nhận ra sự hiện diện đầy an ủi đó.

Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự việc ấy xảy ra.

Trong khi thi hành sứ vụ tại trần gian, Đức Giêsu chỉ có thể hiện diện với tất cả những giới hạn của không gian và thời gian: đó là những giới hạn của “thân phận con người”. Đức Giêsu nhận biết điều đó: “Vì là con người, nên Thầy thấp kém hơn Chúa Cha!”. Một kiểu nói cần phải hiểu cho đúng, vì nó không phủ nhận những kiểu nói khác nhằm quả quyết Đức Giêsu ngang hàng với Chúa Cha. Chính các tông đồ cũng không hiểu biết gì vào chiều hôm đó.

Lạy Thánh Thần, xin hãy đến!

 

 

 

 

 

18. Chú giải của Fiches Dominicales

“THẦY BAN CHO ANH EM SỰ BÌNH AN CỦA THẦY.

THẦY RA ĐI VÀ TRỞ LẠI VỚI ANH EM”

 

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Loan báo một sự hiện diện khác.

Sách Bài đọc Chúa Nhật này trích trong chương 14 của Tin Mừng Thánh Gioan, một đoạn xoay quanh chủ đề “ra đi”, chủ đề được diễn tả bởi những từ được lặp đi lặp lại: “ra đi”, “đi”, “trở về”, “con đường”… Tin Mừng ám chỉ hành trình nào? Đức Giêsu trở về với Chúa Cha. Rõ rồi. Nhưng, đây cũng còn là hành trình của các môn đệ được người hướng dẫn về với Cha.

– Với Đức Giêsu, sự ra đi của Người đã đến gần. Các môn đệ ưu phiền vì viễn tượng này người nói với họ rằng Người đi, rồi trở lại với họ, để bắt đầu giữa họ và trong họ một cách hiện diện khác, nhiệm mầu, chỉ dành cho những ai trung tín với Lời Người. Người không có ý đề cập đến sự trở lại với hình dạng thể lý, cũng không phải sự trở lại huy hoàng ngày thế mạt; nhưng, ngay từ bây giờ, là sự hiệp thông nghĩa thục với Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ba Ngôi “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy”.

Một thời kỳ đã kết thúc, thời kỳ người ta thấy được bằng mắt, nghe được bằng tai. Với biến cố phục sinh, một thời kỳ mới bắt đầu, một cách thế khác cho liên hệ giữa Người với các môn đệ. Thời kỳ của Chúa Thánh Linh mà “Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy”. Người sẽ dẫn các ông tới chỗ hiểu thấu đáo lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu.

X. Léon-Dufour giải thích rằng: “Tiếp theo thời kỳ mạc khải của Đức Giêsu Nadarét, là thời kỳ của Đấng Bàu Chữa. Người tỏ lộ cùng một mạc khải, nhưng đầy đủ, trọn vẹn. Sứ vụ trần gian của Đức Giêsu kết thúc, nhưng đối với các môn đệ, Chúa Thánh Linh còn rọi sáng những lời Đức Giêsu dạy rõ hơn “khi các ông nghe lúc trước” (“Lecture de lEvangile selon Jean”, Seuil, trg 129).

Hai từ ngữ chỉ chức vụ: đã được ủy thác cho Chúa Thánh Linh, Đấng Bàu Chữa: “dạy dỗ”, “nhắc lại”.

– Người sẽ dạy dỗ họ tất cả những gì Đức Giêsu thừa lệnh Chúa Cha thông truyền cho nhân loại. Như vậy, những gì mà các ngôn sứ loan báo sẽ thực hiện ngoài sự trông đợi: “mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo” (Is 54,13; xem thêm Giêrêmia 31,33ss).

– Người sẽ nhắc họ nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói với họ. Không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách nói của Kinh Thánh, là chấm phá ra ý nghĩa những lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục sinh.

X Léon-Dufour chú giải: “Khi nhắc các môn đệ nhớ lời của Đức Giêsu, Chúa Thánh Linh không chỉ lặp lại giọng điệu của Thầy cho những trí nhớ quá tệ, nhưng Ngài còn giải nghĩa dưới ánh sáng Phục sinh cho các ông nắm bắt được ý nghĩa, mà cho tới lúc này còn rất tối tăm đối với các ông. Nhiệm vụ giải thích của Chúa Thánh Linh liên quan tới sứ điệp của Ngôi Con, nhằm làm cho cộng đoàn thành nơi mạc khải luôn được tiếp tục và hiện thực một cách sáng tạo trong đời sống các tín hữu. Như thế lời Đức Giêsu luôn sống động qua thời gian” (Sđd, trg l32).

2. Ơn bình an

Rồi để từ biệt những người thân của mình, và vào lúc sắp sửa vượt qua thung lũng Cédron để tới Giếtsêmani, như báo trước lời đầu tiên của Đấng phục sinh, Đức Giêsu ban bình an cho các các môn đệ.

Bình an, đối với người quen thuộc Thánh Kinh, không phải chỉ là sự vắng bóng bạo hành, tĩnh lặng trong tâm hồn, mà chính là sức khỏe, sự thịnh vượng, hạnh phúc sung mãn, ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này. Vì đó là phúc lộc cứu độ tuyệt vời nhất: “Lúc đó, sự công chính nở rộ và bình an lớn lao tới khi mặt trăng khuất bóng” (Tv 72, 7).

Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, là Đấng trung gian của sự bình an này, nên Người có thể gọi đó là sự bình an của mình: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”.

Không phải là thứ bình an giả tạo mà nhiều lần các ngôn sứ đã cảnh báo và Đức Giêsu đã từ chối đem xuống trên mặt đất nhưng là bình an đích thực của Thiên Chúa, mà để ban cho thế gian, Đức Giêsu đã hy sinh mạng sống.

Hiệu quả của ơn bình an này là: các môn đệ không còn xao xuyến nữa, dù trước viễn tượng Đức Giêsu sẽ khuất dạng, hay trước nhiệm vụ đang chờ họ, chính họ sẽ là những người đem Tin Mừng cứu độ vào giữa lòng thế giới.

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Một tạm biệt cho hôm nay

Lời tạm biệt của Đức Giêsu không để dành tới ngày mai, nhưng là ngày hôm nay người ta suy diễn từ sự hỗn độn trong cách dùng thì của động từ (ngôn ngữ Tây phương rõ rệt hơn).

Có lúc Đức Giêsu nói trong thì hiện tại: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh em” (14,28), nhưng chỉ một lúc sau đó, Người lại nói ở thì tương lai: “Chúng Ta sẽ đến ở lại với người ấy” (14,23); và rồi, Người lại dùng thì hiện tại: “Thầy ra đi và trở lại cùng anh em” (l4,28). Đức Giêsu đến làm đảo lộn thời gian chúng ta vẫn quen: Điều này có nghĩa là Đức Giêsu đến từ một thế giới khác, nhưng cũng có nghĩa là Người làm chủ tiến trình lịch sử: với kẻ tin, Đức Giêsu còn thực hiện những công trình lớn lao hơn những điều người đã thực hiện khi còn sống đời dương thế, và qua hành động này của Đức Kitô, các môn đệ cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu. Đấng luôn ở với họ. Có thể suy diễn như thế về những người đã ra đi trước chúng ta không? Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã can đảm nêu lên: “Tôi muốn rời trời cao để đi gieo hạnh phúc cho trái đất”. Đối với chị, những bậc “chân phước” không thể làm ngơ trước thân phận con người còn tại thế. Người chết hiện diện trước mắt ta, một sự hiện diện như chính sự có mặt của Đức Kitô. Dĩ nhiên, chúng ta không có ý đề cập đến lời nói và chữ viết cầu cơ. Sự hiện diện này tương tự với sự hiện diện của Thánh Linh do Chúa Con sai đến. Mầu nhiệm của sự hiệp thông sâu xa này chắc chắn không được tỏ lộ rõ ràng; đó là mầu nhiệm mà thần học gọi là “các thánh cùng thông công”.

2. Chìm ngập trong Thánh Linh Đấng Bàu Chữa

(Henri Denis, trong “100 từ ngữ diễn tả đức tin”, DDB, trg 161-162).

Đấng Bàu chữa, đó là từ dịch từ tiếng Hy Lạp, lúc đầu có nghĩa tố tụng là trạng sư, người bênh vực, trợ giúp. Rồi nghĩa rộng là Đấng an ủi, chuyển cầu. Điều hơi lạ là lúc đầu, chữ này dùng chỉ Đức Kitô (Trong thư thứ nhất của thánh Gioan 2,1) “nếu có ai phạm tội, chúng ta có Đấng Bàu Chữa trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính”. Nhưng phần nhiều dùng chỉ Chúa Thánh Linh. Và nếu hiểu về Chúa Thánh Linh với tất cả những đức tính nêu trên, chúng ta sẽ nhận ra rằng: ở trần gian này, không thể một mình mà trung tín với Đức Kitô được. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã tiên liệu một phương thế: các con sẽ không cô độc đâu. Đức Kitô khuất dạng đã nhường chỗ cho Đấng biện hộ. Ngài đem đến cho các Kitô hữu một liều thuốc kháng độc cần thiết để họ sống đúng đời Tin Mừng giữa trần gian nhiều thử thách.

Thật là đúng khi tin tưởng rằng – từ khi Đức Giêsu ra đi, tức lúc Người lên trời – Tất cả những gì Đức Kitô thực hiện cách tỏ tường trong thế giới này đều được thực hiện bởi những người dám liều mình vì đức tin, nhiều khi hy sinh cả mạng sống nữa.

Họ không cô độc là thế? Đấng thi công vĩ đại, khi hợp nhất mọi người, hợp nhất chính Giáo hội, chính là Đấng Bầu chữa vô hình. Người đem sức mạnh đổ xuống tràn đầy trên người yếu đuối, đem dũng cảm đổ xuống tràn đầy trên người sợ sệt. Đó là ơn an ủi của Chúa Thánh Linh, như một ngọn lửa cháy lan từ Kitô hữu này sang Kitô hữu nọ, từ thế hệ này sang thế hệ kia.

Để kết thúc, đề nghị bạn cùng tôi đọc những câu đầu trong thư thứ hai của thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô (1,3-7) và thay những từ trạng sư, bênh vực, an ủi, bằng chính từ Hy Lạp paraclitos. Bạn sẽ cảm thấy một ấn tượng kỳ lạ. Như lặp lần nữa đi (chín lần), bạn sẽ hiểu chúng ta thực sự chìm ngập trong Paraclitos, Thánh Linh-bầu Chữa.

“Chúc tụng Thiên Chúa là thân phụ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Người là Thiên Chúa mọi niềm an ủi; Người đã ban Đấng Bàu Chữa cho chúng ta trong mọi nỗi gian truân, để chúng ta có thể trở thành kẻ bàu chữa cho tất cả những ai trong cơn hoạn nạn nhờ Đấng Bàu Chữa mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn nỗi khổ ải của Đức Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi. Chúng tôi phải chịt gian nan ư? Chính là để anh em được ủi an và cứu độ. Chúng tôi nhận lãnh Đấng Bàu Chữa ư? Cũng là để anh em được nhận lãnh Đấng Bàu Chữa. Chúng tôi lấy làm an tâm về anh em, vì biết rằng anh em thông phần thống khổ với chúng tôi thế nào, thì cũng được thông phần an ủi như vậy”.

 

 

 

 

 

19. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

SỰ HIỆN DIỆN LIÊN TỤC CỦA CHÚA GIÊSU

 

1. Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đừng bối rối trước viễn ảnh ra đi của Ngài (c.1): Chúa Cha sắp gởi đến cho họ một Đấng phù trợ khác trong ngôi vị Thánh Thần (c.16-17); còn Ngài, Ngài sắp trở lại với họ dưới một hình thức mà thế gian không thấy, nhưng những ai tin vào Ngài mới thấy (c.18-21).

Việc Thiên Chúa đến ở đây khác xa với ý nghĩ của những người Do Thái cũng như của các môn đệ. Được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện Cựu Ước, các thị kiến tiên tri, các quang cảnh có tính cách Khải huyền, họ mơ đến một cuộc thần hiện dị thường, chói lòa vinh quang Thiên Chúa (Is 60), một cuộc phán xét toàn diện chấm dứt dòng lịch sử để thiết lập vương quyền Thiên Chúa và các thánh (Đn 7). Giuđa bày tỏ sự ngạc nhiên của tất cả các môn đệ: “Thưa Ngài tại sao có thế này: là Ngài chỉ tỏ mình ra cho chúng tôi, chứ không cho thế gian?” (c.22). Ông ta mơ đến một cuộc hiển hiện khả giác. Ông không hiểu rằng việc Chúa Giêsu và thánh linh chỉ được nhận biết trong đức tin.

Thoạt nhìn, câu trả lời của Chúa Giêsu (c.23) như bất biết câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra Ngài trực tiếp trả lời câu hỏi đó, khi loan báo sự mạc khải mầu nhiệm của Ngài và nói lên nguyên nhân khiến thế gian không hiểu được mạc khải ấy. Ngài bỏ qua mọi viễn tượng cánh chung, để chỉ nói việc Thiên Chúa đến trong Giáo hội và trong thời gian. Đó là một quan điểm hoàn toàn mới mẻ được đưa vào nhân câu hỏi của Giuđa.

Để tiếp đón Thiên Chúa, phải tin nhận lời Ngài và đáp trả bằng tình yêu. Tất cả truyền thống Thánh Kinh đã tuyên bố như vậy. Biết Thiên Chúa là có tương quan với Ngài trong nội tâm và tình yêu. Tám thế kỷ trước Chúa Giêsu, Ôse đã loan báo sự cứu độ Israel như là cuộc đính hôn và biểu thị đặc tính của nó bằng sự “nhận biết” Thiên Chúa: “Ta sẽ đính hôn với ngươi muôn thuở, cưới ngươi trong công bình, chính trực, dịu hiền và yêu mến; Ta sẽ đính ước với ngươi trong chung thủy, và ngươi sẽ biết Giavê” (Os 2,20-22). Theo kiểu nói Phúc Âm, các môn đệ biết rằng yêu Chúa Giêsu đầu tiên cốt tại “giữ lời Ngài” (c. 15 và 21), nghĩa là nhận ra trong sứ điệp của Ngài những đòi hỏi và những ân huệ của tình yêu Thiên Chúa và đáp trả bằng sự dấn thân cả đời sống cách đích thực và quảng đại.

Đối với những ai yêu Ngài như thế, Chúa Giêsu hứa hẹn rất tuyệt diệu Ngài không nói đến tình yêu mà Ngài đương nhiên dành cho họ, nhưng Ngài loan báo cho họ tình yêu và hồng ân kỳ diệu của Chúa Cha: đó là cùng với Chúa Con (c.18-21), chính Chúa Cha sẽ đến ở với các tín hữu. Các Ngài sẽ đến cư ngụ trong họ như trong đền thờ của mình (x.4,21-24).

Cựu Ước đã biết việc Thiên Chúa đến, ví dụ việc Ngài đến thăm Abraham dưới cây sồi Membré (St 18,1-15), nhưng đó chỉ là một sự gặp gỡ tạm thời dưới hình dáng bên ngoài. Các tiên tri đã loan báo một cuộc thần hiện vinh quang vào thời cánh chung (Is 60), nhưng sự thể hiện kỳ diệu này không để chỗ cho sự thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và tín hữu Ngài, với lại không có vấn đề cho cuộc sống này. Còn Chúa Giêsu hứa ban cho các người của Ngài, ngay từ đời này, được kết hợp thân mật cá vị với Thiên Chúa trong chốn sâu thẳm của đời sống Ba Ngôi. Ngài không dùng chữ “tỏ mình” nữa (c.21) vì trong câu hỏi của Giuđa, chữ đó dễ gây hiểu lầm (c.22). Việc Thiên Chúa đến mà Ngài loan báo vượt lên trên tất cả những mơ tưởng của Do Thái giáo và những kỳ vọng của các tiên tri: đó là sự hiện diện trực tiếp của chính Thiên Chúa trong nội tâm và tình yêu; lời hứa tuyệt vời của Phúc Âm là vậy.

Những ai chối từ tình yêu Thiên Chúa (c.24) thì không thể thấu triệt việc Thiên Chúa Ba Ngôi đến cách vô hình mà Chúa Giêsu vừa loan báo cho những ai yêu mến Ngài. Họ không “biết” Chúa Giêsu vì đã khước từ sứ điệp của Ngài. Họ không thể “biết” Chúa Cha, nguồn sứ điệp này (3,31-34; 5,37-38; 7,16-17; 8,47; 12,48-50). Ở đây, Giuđa tìm thấy lời giải đáp cho câu hỏi của ông: chỉ biết được Chúa Giêsu nhờ đức tin (1,9-12), Ngài chỉ tỏ mình ra cho những kẻ tin (14,19).

Đã có một thời gian Chúa Giêsu hiện diện cách hữu hình với môn đệ; họ có thể nghe lời Ngài qua giác quan (c.25). Nhưng bây giờ thời gian này không còn nữa, và phục sinh sắp mở đầu một thời gian mới trong đó tương quan giữa thày và trò thay đổi cách thức (Lc 24,44). Sự lưu truyền lời Chúa phán trong cuộc đời tại thế vẫn còn. Và chính sự lưu truyền này phát sinh ra Phúc Âm. Tuy nhiên nó sẽ được đổi mới hoàn toàn.

2. Thật vậy, sự lưu truyền lời Chúa Giêsu trong Giáo hội không phải là một sự tồn kho bất động, một việc sưu tập những lời cổ kính, bởi lẽ chính Thánh Thần làm nên sự lưu truyền này (c.26). Theo các lời từ biệt khác của Chúa Giêsu, Thánh Thần là Đấng Bàu Chữa công lý bênh vực Chúa Giêsu và môn đệ của Ngài trước tòa án của thế gian này (15,16; 16,7-11; Mt 10,20; Mc 13,11; Lc 12,12). Ở đây cũng như trong các tiên tri, Ngài (Chúa Thánh Thần) là Đấng linh ứng lời Thiên Chúa. Trong sứ mệnh tại thế, Chúa Giêsu đã nói được “những lời của Thiên Chúa, Đấng ban dư đầy THÁNH THẦN cho Ngài” (Ga 3,34) những lời này là “thần trí và là sự sống” (Ga 6,63). Và nếu Thánh Thần được ban cho môn đệ trong ngày phục sinh (Ga 20,22; 7,37-39), đó là để đặc biệt nhắc nhở họ nhớ lại sứ điệp. Không phải một việc ghi vào ký ức cách vật chất; thánh Gioan hai lần ghi chú trong Phúc Âm là các môn đệ chỉ thấu triệt ý nghĩa lời Chúa Giêsu cũng như các hành động của Ngài khi “nhớ lại” chúng dưới ánh sáng phục sinh (Ga 2,22; 12,16), nghĩa là dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Đấng giúp họ quán triệt ý nghĩa thâm sâu. (Vai trò soi chiếu của Thánh Thần đã được phác họa trong Ga 16,12-14).

Chúa Giêsu đã loan báo trong diễn từ (14,16) là sẽ xin Cha sai Thánh Thần Bàu Chữa đến với họ. Ở đây Ngài cũng thêm là Cha sẽ sai đến nhân danh Ngài. Cả hai cách nói tương đương và tạo nên một trong những công thức chính xác rõ ràng nhất về thần học Thiên Chúa Ba Ngôi trong Tân Ước. Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong tín hữu, có cùng một mục đích là làm cho họ nhận biết sứ điệp Thiên Chúa và cho họ thông hiệp vào mầu nhiệm sự sống của Ngài.

3. Khi đã bảo đảm cho họ về một ánh sáng sống động sắp đến, Chúa Giêsu mới có thể từ giã họ. Ngài từ giã theo phong tục người Do Thái, với lời chào: Shalôm: bình an. Tuy nhiên đây không phải là một lời từ giã thông thường: “Ta ban bình an của Ta cho các con”. Thế gian chỉ có thể chúc bình an, còn Ngài ban bình an, bình an riêng của Ngài. Theo não trạng người Hy Bá, chữ “bình an” diễn tả một cái gì còn hơn sự an tĩnh của tâm hồn. Nó bao gồm tất cả những thiện hảo mà người ta có thể cầu chúc; đó chính là sự an lạc. Nhưng sự bình an của Chúa Phục sinh (20,19.21.26) còn hơn sự an lạc vật chất hay hạnh phúc nhân bản. Bình an hệ tại việc chiếm hữu chân lý (theo nghĩa đã giải thích ở trên) với sự hiện diện viên mãn của Thiên Chúa. Sự chiếm hữu này làm cho các môn đệ thoát khỏi những thăng trầm của cuộc sống này, bằng cách bảo đảm cho họ rằng họ sẽ vượt qua tất cả các chướng ngại vật thế gian gây ra cho các việc chứng nhân của họ: “Hãy vững lòng, Ta đã thắng thế gian” (16,33). Lời từ biệt này có thể làm cho họ bối rối (14,1), nhưng họ chẳng có gì phải sợ, vì sự ra đi này không phải là một sự chia cách.

4. “Cha lớn hơn Ta”. Các giáo phụ và các thần học gia, nhất là những vị đã từng tranh luận về Thiên Chúa Ba Ngôi, đã bối rối vì mấy chữ đó, và đã dựa vào chúng để bàn cãi sôi nổi về mối liên hệ giữa Ngôi Cha và Ngôi Con, cũng như việc phân biệt hai bản tính trong Đức Kitô và về nguồn gốc của Chúa Con. Nhưng những cuộc bút chiến này, nếu không đi sai đường, thì cũng đi vào ngõ cụt. Tình yêu của môn đệ chỉ nhằm đến vẻ bề ngoài của con người Chúa Giêsu. Họ còn yêu Ngài trong mức độ họ còn có thể đụng chạm Ngài dưới hình thức nhân loại của Ngài và tùy theo địa vị mà họ ao ước nắm giữ trong vương quốc thiên sai. Họ đã phán đoán và yêu Ngài từ bên ngoài. Nhưng con người của Ngài bám chặt cách thâm sâu vào Chúa Cha, Cha trở nên hữu hình trong Ngài (x.14,9). Cái quan trọng không phải là cái mà họ đã nắm chắc được nơi Ngài cho tới bây giờ, nhưng là Chúa Cha qua Ngài. Chính trong nghĩa này mà Gioan đã có thể viết mà không sợ đụng chạm đến đức tin tí nào: “Cha trọng hơn Ta”, có nghĩa là trọng hơn cái mà các con đã thấy nơi ta. Chúa Giêsu kém cao trọng xét như là người mạc khải Cha. Sự phân biệt đó không nhằm đối chiếu bản tính loài người và bản tính Thiên Chúa (như truyền thống đã cắt nghĩa) nhưng nhằm đối chiếu cái môn đệ hình dung, trình bày về Ngài (sa “prêsentation humaine”) (trong tư thế một vị thiên sai) với ý nghĩa thiện linh trọn vẹn của Ngài (sa pleine signification divine) là mạc khải Chúa Cha. Đây là vấn đề nhận biết Chúa Cha trong Chúa Giêsu. Khi các môn đệ nhận biết điều đó rồi, thì không còn vấn đề hơn thua, vì Cha và Ngài chỉ là một.

KẾT LUẬN

Nhờ suy tư sau khi gần hoàn tất Phúc Âm, thánh Gioan ngày càng thấu triệt khiếm diện và hiện diện của Chúa Giêsu trong các môn đệ. Từ lúc Chúa chết trên thập giá, ông đã sống trong sự khiếm diện siêu việt của Chúa. Ông có thể kết luận cuốn Phúc Âm của mình: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Vì ông kinh nghiệm rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu đối với các môn đệ không cốt tại các thị kiến phi thường, cũng không phải trong các lần hiện ra ngắn ngủi và dành riêng cho một vài nhân chứng sau khi sống lại, nhưng sự hiện diện luôn có đối với những ai tìm kiếm Ngài với niềm tin. Được nâng lên trong vinh quang Thiên Chúa, hiệp nhất cách mầu nhiệm với Cha và Thánh Thần, Đấng Phục sinh đã từ bỏ đời sống trần thế, là đời sống đã làm cho Ngài có thể nhận biết một cách khả giác. Nhưng khuất mắt ta để từ đây luôn luôn hiện diện với chúng ta theo cách thế của Thiên Chúa (Mt 28,20)

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Trái ngược với việc tuân giữ cách máy móc và mệt nhọc những giới luật tỉ mỉ, không sống động, thích hợp chút nào với tâm hồn tín hữu, Chúa Giêsu thiết lập các tương quan giữa Ngài với các môn đệ trên mối liên lạc tình yêu. Để thấy Chúa Giêsu, để sống nhờ Ngài, với Ngài, thì phải “giữ lời Ngài” (c.24). Sự sống này, như Chúa Giêsu xác định, là chính sự sống của Ngài nhận từ Cha, sự sống mà Ngài có với Cha, nghĩa là mối dây tình yêu.

2. Lúc sắp lìa xa các môn đệ, lúc sắp được nâng lên, Đức Kitô loan báo cho họ biết Ngài hằng hiện diện luyôn mãi qua lời Ngài. Bài giã từ trong chương 14 của Gioan không mang một mục đích nào khác ngoài việc tỏ cho biết sự hiện diện mới mẻ này.

Đối với người Semit, lời nói là cái gì cụ thể; cũng như tên gọi, lời nói là biểu thức của một hữu thể, một ngôi vị; hơn tất cả các phương tiện khác, nó bảo đảm được mối giây liên lạc sống động mà mỗi người cố nối kết với tha nhân; đó là cơn mưa đưa sự sống đến cho trái đất, làm nẩy mầm những hạt lúa sẽ trở thành cơm bánh (Is 55,8-11)

Sự hiện diện của Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc đời các tông đồ khi đi sâu vào trong những xác tín của họ. Lúc Chúa Giêsu rời bỏ họ, họ nhớ lại kinh nghiệm đặc biệt mà họ vừa có mà Chúa Giêsu tóm lại trong một chữ: Lời ta. Bằng ấy nói lên tất cả con người của Ngài đối với họ (x.1Ga 2,23; 4,15; 2Ga 9).

Sự hiện diện này sẽ sinh hiệu quả trong họ như sự hiện diện của Thiên Chúa đã sinh hiệu quả suốt lịch sử Israel. Sự hiện diện đó là Shékinah đã theo dân trong sa mạc, đã bao phủ đền thờ trong ngày Salomon cung hiến, đã nâng đỡ những người bị lưu đày, đã hoàn lại sự sống cho “nhóm còn lại”, đã ngập tràn tâm hồn mỗi người trong niềm mong chờ sự hiện diện sung mãn.

Khi theo Chúa Giêsu, các tông đồ đã sống lại lịch sử dân Do Thái và thấy mình được kêu gọi sống thông hiệp thân mật với Đấng đã nói với Môisen “như bạn nói với bạn” (Xac 33,11).

Việc khám phá ra sự hiện diện cao quí vô giá sẽ Giáo hội được thực hiện hàng ngày, qua kinh nghiệm của cuộc sống thường nhật, dưới sự phù trợ của Thánh Thần, Đấng làm sống lại tạo vật mới đang thoát dần khỏi bóng tối của sự bách hại, sự chia rẽ và sự chết. Không gì có thể lay chuyển được sự hiện diện đó do Thánh Thần ban.

3. Sự ra đi của Đức Kitô, tức cuộc tử nạn, Phục sinh của Ngài, là cần thiết để các tông đồ khám phá một cách rõ ràng Chúa Giêsu là ai: là nhân chứng đặc biệt của Cha và của tình yêu Ngài. Họ phải khám phá thấy tình yêu đó còn lớn hơn tất cả những gì họ đã khám phá ra nơi Đức Kitô. Như vậy, Chúa Giêsu mời gọi họ khám phá ra điều họ đã tiên cảm. Làm sao họ lại không vui cho được.

4. Sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu không phải là tất cả. Sự hiện diện vô hình trong tâm hồn cao quí hơn nhiều. Cũng như thánh Phaolô, chúng ta không nuối tiếc vì đã không sống vào thời Phúc Âm. Thật là mối nguy hiểm nếu chỉ nhận biết Chúa Giêsu qua ngoại diện (theo xác thịt) mà không sống kết hiệp nội tâm với Ngài theo Thánh thần (2Co 5,16).

5. Tuần tới, chúng ta sẽ cử hành lễ Chúa Thăng Thiên, một cuộc ra đi cần thiết để ban Chúa Thánh Thần xuống cho ta. Ngay từ bây giờ, chúng ta hãy tin tưởng mong đợi Chúa Thánh Thần. Để được như vậy, chỉ cần biết chấp nhận bình an của Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài, nghĩa là tin và để lời đó phát sinh trong ta hoa trái đã được Chúa loan báo trước. Chúng ta sắp thông phần với hy tế của Ngài, sắp lãnh nhận Ngài làm của ăn; ước gì sự hiện diện sống động của Ngài là sức mạnh và kiên nhẫn cho chúng ta. Chớ gì bình an vượt quá mọi sự của Ngài tràn ngập chúng ta.