Tuần 11, ngày 68-74: Ông Sam-sôn | 365 ngày Hiệp hành với Lời Chúa

Ngày 68 – Giao chiến bên tây ngạn sông Gio-đan

Thủ Lãnh 7,1-25

Ông Giơ-rúp-ba-an, tức Ghít-ôn, cũng như toàn dân đang ở với ông, thức dậy thật sớm, và ông đóng trại gần Ên Kha-rốt ; còn trại quân Ma-đi-an thì nằm ở phía bắc trại ông, sát đồi Mô-re, trong đồng bằng. ĐỨC CHÚA phán bảo ông: “Đám dân ở với ngươi quá đông ; Ta không trao quân Ma-đi-an vào tay chúng được, kẻo Ít-ra-en lại tự phụ phạm đến Ta, khi cho rằng ‘Chính tay tôi đã cứu tôi.’ Vậy ngươi hãy công bố cho dân nghe: ‘Ai sợ hãi và run khiếp thì hãy về đi!’” Và ông Ghít-ôn đã thử họ: hai mươi ngàn người trong dân rút lui, còn lại mười ngàn.

ĐỨC CHÚA phán với ông Ghít-ôn: “Dân này vẫn còn đông. Hãy bảo chúng xuống gần nước, ở đó Ta sẽ thử chúng. Kẻ nào Ta nói với ngươi ‘người này sẽ đi với ngươi’ thì kẻ đó sẽ đi với ngươi. Còn tất cả những ai Ta nói với ngươi ‘người này không đi với ngươi’, kẻ đó sẽ không được đi.” Vậy ông Ghít-ôn đem đám dân ấy đến gần nước, và ĐỨC CHÚA phán với ông Ghít-ôn: “Tất cả những ai thè lưỡi tớp nước như chó, ngươi hãy để riêng ra, tất cả những ai quỳ xuống mà uống cũng vậy.” Số người dùng tay đưa nước lên miệng mà tớp là ba trăm. Tất cả số dân còn lại đều quỳ xuống mà uống nước. Bấy giờ ĐỨC CHÚA phán với ông Ghít-ôn: “Với ba trăm người đã tớp nước, Ta sẽ cứu các ngươi, và sẽ trao quân Ma-đi-an vào tay ngươi. Còn tất cả những người khác thì hãy rút lui, ai về nhà nấy.” Người ta giữ lại vò lương thực của đám dân, cùng với các tù và. Sau đó, ông Ghít-ôn cho tất cả con cái Ít-ra-en trở về, ai nấy về lều mình, chỉ giữ lại ba trăm người. Doanh trại của người Ma-đi-an nằm phía dưới trại của ông, trong đồng bằng.

Đêm ấy ĐỨC CHÚA phán với ông: “Đứng lên! Đi xuống doanh trại, vì Ta sẽ trao nó vào tay ngươi. Nhưng nếu ngươi sợ không dám xuống, thì hãy đi xuống trại với Pu-ra, đầy tớ ngươi. Ngươi sẽ nghe ngóng xem chúng nói gì ; sau đó tay ngươi sẽ ra cứng rắn, và ngươi sẽ xuống đánh trại.” Vậy chính ông đã cùng với Pu-ra, đầy tớ ông, xuống tới đầu tiền đồn của trại.

Quân Ma-đi-an, A-ma-lếch và toàn quân Phương Đông nằm đầy đồng bằng, nhiều vô kể như châu chấu, và số lạc đà của chúng không đếm nổi, như cát trên bờ biển. Ông Ghít-ôn tới nơi, thì này một tên đang kể cho đồng đội một giấc chiêm bao. Hắn nói: “Đây là giấc chiêm bao tôi đã nằm mơ: một tấm bánh lúa mạch lăn trong trại Ma-đi-an, tới một chiếc lều, đụng vào lều thì nó ngã xuống, cuốn chỏng gọng cái lều lên, thế là cái lều đổ.” Người đồng đội hoạ theo và nói: “Đây chỉ có thể là chiếc gươm của Ghít-ôn, con Giô-át, người Ít-ra-en. Thiên Chúa đã trao người Ma-đi-an và cả doanh trại vào tay ông ta.” Khi nghe kể giấc chiêm bao và lời giải thích, ông Ghít-ôn sấp mình xuống, đoạn trở về trại Ít-ra-en và nói: “Đứng lên! Vì ĐỨC CHÚA đã trao vào tay anh em doanh trại Ma-đi-an.”

Bấy giờ ông chia ba trăm người thành ba cánh quân, trao vào tay mọi người tù và, vò rỗng có đuốc bên trong. Ông bảo họ: “Hãy nhìn và làm theo tôi. Khi tới đầu trại, tôi làm gì thì các anh cứ làm theo! Tôi sẽ rúc tù và cùng một lúc với tất cả những người đi với tôi ; bấy giờ các anh cũng rúc tù và khắp quanh trại và cùng hô: Vì ĐỨC CHÚA! Vì Ghít-ôn!”

Ông Ghít-ôn cùng với một trăm người theo ông đi tới đầu trại vào đầu canh hai, lúc vừa thay người canh ; họ rúc tù và, đồng thời đập bể những chiếc vò đang cầm trong tay. Bấy giờ cả ba cánh quân đều rúc tù và, đập bể vò ; tay trái nắm chắc đuốc, tay phải cầm tù và rúc lên, rồi họ cùng hô: “Vì ĐỨC CHÚA, vì Ghít-ôn, vung kiếm lên!” Chung quanh trại, ai nấy đứng yên tại chỗ. Cả trại tán loạn, la ó và chạy trốn. Trong lúc ba trăm người rúc tù và thì ĐỨC CHÚA làm cho mỗi người trong khắp trại quay gươm giết bạn mình. Cả doanh trại đều trốn chạy về phía Xơ-rê-ra cho đến Bết Ha Sít-ta, bên bờ suối A-vên Mơ-khô-la, đối diện với Táp-bát.

Bấy giờ từ Náp-ta-li, A-se và toàn thể Mơ-na-se, các người Ít-ra-en họp nhau lại và rượt đuổi quân Ma-đi-an. Ông Ghít-ôn sai sứ giả đi kêu gọi khắp vùng núi Ép-ra-im: “Hãy xuống đón đầu quân Ma-đi-an, chiếm cứ các nguồn nước của chúng, cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan.” Tất cả các người Ép-ra-im đều họp lại chiếm lấy các nguồn nước cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan v. Họ bắt được hai tướng của Ma-đi-an là Ô-rếp và Dơ-ếp ; họ giết Ô-rếp tại tảng đá Ô-rếp, còn Dơ-ếp thì giết tại bồn ép nho Dơ-ếp. Họ còn rượt theo quân Ma-đi-an và mang thủ cấp của Ô-rếp và Dơ-ếp từ bên kia sông Gio-đan về cho ông Ghít-ôn x.

 

Ngày 69 – Truyền tin ông Sam-sôn ra đời

Thủ Lãnh 13,1-25

Con cái Ít-ra-en lại làm sự dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, và ĐỨC CHÚA đã trao họ vào tay người Phi-li-tinh bốn mươi năm.

Có một người đàn ông ở Xo-rơ-a, thuộc chi tộc Đan, tên là Ma-nô-ác. Vợ ông son sẻ và không sinh con. Sứ giả của ĐỨC CHÚA hiện ra với người vợ và nói với bà: “Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai. Vậy bây giờ phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch. Vì này bà sẽ có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh.” Bà đi vào và nói với chồng rằng: “Một người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi ; hình dáng của người như hình dáng một sứ giả của Thiên Chúa, rất đáng sợ. Tôi đã không dám hỏi người từ đâu tới ; và danh tánh người, người cũng không tiết lộ cho tôi. Nhưng người nói với tôi: ‘Này bà sẽ có thai và sẽ sinh một con trai ; bây giờ bà phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch, vì con trẻ ấy sẽ là một na-dia của Thiên Chúa, từ lòng mẹ cho đến ngày nó chết.’”

Ông Ma-nô-ác khẩn cầu ĐỨC CHÚA, ông nói: “Thưa Ngài, xin vui lòng cho người của Thiên Chúa mà Ngài đã sai, đến với chúng con một lần nữa, và dạy chúng con phải làm gì cho đứa trẻ sẽ sinh ra.” Thiên Chúa nghe tiếng ông Ma-nô-ác, và sứ giả của ĐỨC CHÚA lại đến gặp vợ ông, lúc bà đang ở ngoài đồng, khi ông Ma-nô-ác, chồng bà, không có mặt ở đó. Bà vội vã chạy đi báo cho chồng, và nói với ông: “Này người đã gặp tôi hôm trước, lại hiện ra với tôi nữa.” Ông Ma-nô-ác đứng dậy đi theo vợ, đến gặp người kia và nói: “Ngài có phải là người đã nói với bà này không?” Người ấy đáp: “Chính tôi.” Ông Ma-nô-ác nói: “Khi xảy ra như ngài nói, thì đứa bé phải giữ luật nào, và nó phải làm gì?” Sứ giả của ĐỨC CHÚA nói với ông Ma-nô-ác: “Tất cả những điều tôi đã nói với bà ấy thì bà ấy phải giữ. Tất cả những gì bởi cây nho mà ra, thì bà không được ăn, cũng không được uống rượu và thức có men ; tất cả những gì không thanh sạch, thì bà không được ăn. Mọi điều tôi đã truyền, thì bà phải tuân giữ.” Ông Ma-nô-ác thưa với sứ giả của ĐỨC CHÚA: “Xin cho phép chúng tôi giữ ngài lại và dọn hầu ngài một con dê tơ!” Sứ giả của ĐỨC CHÚA nói với ông Ma-nô-ác: “Ông có giữ tôi lại, tôi cũng chẳng ăn bánh của ông ; nhưng nếu ông dọn lễ toàn thiêu kính ĐỨC CHÚA, thì ông hãy dâng lên Người đi”, vì ông Ma-nô-ác không biết người ấy là sứ giả của ĐỨC CHÚA. Bấy giờ ông Ma-nô-ác nói với sứ giả của ĐỨC CHÚA: “Xin ngài cho biết quý danh, để khi xảy ra như ngài nói, chúng tôi sẽ trọng đãi ngài!” Sứ giả của ĐỨC CHÚA nói với ông: “Sao ông lại hỏi tên tôi? Đó là một điều bí nhiệm.” Bấy giờ ông Ma-nô-ác bắt một con dê tơ và lấy tế phẩm, để dâng làm lễ toàn thiêu trên tảng đá kính ĐỨC CHÚA, Đấng đã thực hiện những kỳ công, rồi ông Ma-nô-ác và bà vợ đứng nhìn. Khi ngọn lửa từ bàn thờ bốc lên trời, thì sứ giả của ĐỨC CHÚA cũng lên theo trong ngọn lửa của bàn thờ, trước sự chứng kiến của ông Ma-nô-ác và vợ ông ; họ phục lạy sát đất. Sứ giả của ĐỨC CHÚA không hiện ra với ông Ma-nô-ác và vợ ông nữa. Bấy giờ ông Ma-nô-ác mới biết vị đó chính là sứ giả của ĐỨC CHÚA. Ông Ma-nô-ác liền nói với vợ: “Chúng ta chết mất thôi, vì đã thấy Thiên Chúa.” Nhưng vợ ông nói với ông: “Nếu ĐỨC CHÚA có ý định giết chúng ta, thì Người đã chẳng nhận lễ toàn thiêu và tế phẩm từ tay chúng ta, đã chẳng cho chúng ta thấy tất cả những điều ấy, và mới đây đã chẳng cho chúng ta nghe một điều như thế.” Bà sinh được một con trai và đặt tên là Sam-sôn. Đứa bé lớn lên, và ĐỨC CHÚA chúc lành cho nó. Thần khí ĐỨC CHÚA bắt đầu tác động trên Sam-sôn tại Trại Đan giữa Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn.

 

Ngày 70 – Ông Sam-sôn kết hôn

Thủ Lãnh 14,1-20

Ông Sam-sôn xuống Tim-na và để ý đến một phụ nữ trong số các con gái của người Phi-li-tinh tại Tim-na. Ông trở lên và báo cho cha mẹ rằng: “Con đã để ý đến một phụ nữ trong số con gái của người Phi-li-tinh tại Tim-na. Vậy xin cha mẹ cưới cô ấy cho con.” Cha ông cũng như mẹ ông nói: “Trong số con gái của bà con mày và trong tất cả dân tao, không có phụ nữ hay sao mà mày lại đi lấy vợ trong đám người Phi-li-tinh không cắt bì ấy?” Nhưng ông Sam-sôn trả lời cha: “Xin cha cứ cưới cô ấy cho con, vì nàng vừa mắt con.” Cha mẹ ông không biết rằng việc đó là do ĐỨC CHÚA xui khiến, bởi lẽ Người đang tìm cớ cho người Phi-li-tinh gây chuyện, vì thời ấy người Phi-li-tinh đang đô hộ Ít-ra-en.

Ông Sam-sôn xuống Tim-na, và khi ông tới các vườn nho ở Tim-na, thì này một con sư tử con v rống lên và chồm ra phía ông. Bấy giờ thần khí x của ĐỨC CHÚA ập xuống trên ông ; ông dùng tay không xé nó ra như xé một con dê con ; nhưng ông không cho cha mẹ hay việc ông đã làm. Sau đó ông xuống chuyện trò với người phụ nữ và nàng vừa mắt Sam-sôn. Ít lâu sau, ông trở lại cưới nàng. Ông rẽ qua để xem xác chết con sư tử, thì này có một đàn ong đậu trong bộ xương con sư tử và cả mật nữa. Ông móc ra và cầm trong tay, vừa đi vừa ăn. Rồi khi về nhà, ông biếu cha mẹ và cha mẹ ông cũng ăn. Nhưng ông không cho cha mẹ biết là ông đã móc mật ong từ bộ xương con sư tử. Sau đó cha ông y đã xuống gặp người phụ nữ và tại đó ông Sam-sôn làm một bữa tiệc, vì các trai tráng vẫn làm như thế. Khi thấy ông, người ta đã cử ba mươi người trong số bạn hữu để ở với ông.

Ông Sam-sôn nói với họ: “Tôi ra cho các anh một câu đố. Nếu trong bảy ngày tiệc, các anh giải được câu đố ấy và tìm ra câu đáp, thì tôi sẽ tặng các anh ba mươi chiếc áo lụa quý và ba mươi chiếc khác để thay. Nếu các anh không giải được, thì các anh phải cho tôi ba mươi chiếc áo lụa quý và ba mươi chiếc khác để thay.” Họ nói với ông: “Anh ra câu đố đi ; chúng tôi nghe đây!” Ông liền nói với họ:

“Thức ăn xuất tự người dùng,

ngọt ngào xuất tự sức hùng, là chi?”

Nhưng sau ba ngày họ vẫn không giải được câu đố.

Ngày thứ tư họ nói với vợ ông Sam-sôn: “Hãy dụ chồng chị để anh ấy giải nghĩa câu đố cho chúng tôi, nếu không, chúng tôi sẽ nổi lửa đốt cả chị lẫn nhà cha chị. Có phải để bóc lột chúng tôi mà các người đã mời chúng tôi tới đây hay không?” Vợ ông Sam-sôn khóc tỉ tê bên ông. Nàng nói: “Anh chỉ có ghét em thôi, chẳng yêu em chút nào. Anh ra câu đố cho đồng bào em, mà lại không giải cho em.” Ông nói với nàng: “Này, cha mẹ anh, anh cũng còn không giải cho, huống chi là em!” Nhưng nàng khóc tỉ tê bên ông suốt bảy ngày tiệc. Ngày thứ bảy ông đã giải nghĩa cho nàng, vì nàng quấy rầy ông ; và nàng giải câu đố cho đồng bào mình.

Ngày thứ bảy, trước khi mặt trời lặn, người trong thành nói với ông:

“Cái gì ngọt quá mật ong,

khoẻ hơn sư tử thì ông chịu hàng!”

Ông bảo họ:

“Không cày với bò cái của ta,

tụi bay đã chẳng tìm ra câu này!”

Bấy giờ thần khí của ĐỨC CHÚA ập xuống trên ông ; ông liền xuống Át-cơ-lôn và giết ba mươi người trong bọn họ, lột áo của những người ấy, rồi trao những áo để thay cho những kẻ đã giải được câu đố. Ông bừng bừng nổi giận trở về nhà cha ông. Còn vợ của ông Sam-sôn, thì được gán cho một người đã làm phù rể cho ông.

 

Ngày 71 – Ông Sam-sôn đốt mùa màng của người Phi-li-tinh

Thủ Lãnh 15,1-20

Ít lâu sau, vào mùa gặt lúa miến, ông Sam-sôn mang một con dê tơ đến thăm vợ. Ông nói: “Tôi muốn vào phòng ngủ của vợ tôi” ; nhưng bố vợ không cho ông vào. Bố vợ nói: “Thật sự tôi tưởng là anh đã chán ghét nó, nên tôi đã trao nó cho người đã làm phù rể cho anh. Con em nó lại chẳng khá hơn nó sao? Vậy để con em thay cho chị nó đi!” Ông Sam-sôn nói với họ: “Lần này thì tôi vô tội đối với người Phi-li-tinh, nếu tôi làm hại chúng.” Ông Sam-sôn đi bắt ba trăm con chó sói ; lấy đuốc, rồi cột ngược đuôi con này với đuôi con kia và buộc một chiếc đuốc giữa hai đuôi. Ông châm lửa vào đuốc và lùa sói vào đồng lúa chín của người Phi-li-tinh, thiêu rụi từ gốc rạ cho đến bông lúa, thiêu cả nho và ô-liu nữa.

Người Phi-li-tinh hỏi: “Ai đã làm chuyện này?” Và người ta đáp: “Đó là Sam-sôn, con rể của ông người Tim-na, vì ông ấy đã đem vợ hắn gán cho người phù rể của hắn.” Những người Phi-li-tinh đi lên, nổi lửa đốt cả nàng lẫn cha nàng. Ông Sam-sôn nói với họ: “Vì chúng bay đã làm như thế, thì tao sẽ trả thù cho được mới thôi.” Ông đánh cho chúng một trận tơi bời, khiến chúng bị thảm bại. Rồi ông xuống ở trong một hốc đá tại Ê-tham.

Người Phi-li-tinh lên đóng trại ở Giu-đa và tràn ra tới Le-khi.

Người Giu-đa nói với chúng: “Tại sao các anh lại lên chống chúng tôi?” Chúng đáp ; “Để bắt trói Sam-sôn ; chúng tôi lên để xử với hắn như hắn đã xử với chúng tôi.” Ba ngàn người Giu-đa xuống hốc đá ở Ê-tham, nói với ông Sam-sôn: “Ông không biết là người Phi-li-tinh đang đô hộ chúng ta sao? Ông đã làm gì cho chúng tôi thế?” Ông trả lời họ: “Chúng xử với tôi làm sao, tôi cũng xử với chúng như vậy!” Họ nói: “Chúng tôi xuống bắt trói và nộp ông cho người Phi-li-tinh!” Ông Sam-sôn nói với họ: “Các anh phải thề với tôi là chính các anh sẽ không đập chết tôi.” Họ đáp: “Chúng tôi chỉ bắt trói và nộp ông cho chúng thôi ; chứ giết ông thì chúng tôi không giết.” Rồi họ dùng hai chiếc dây thừng mới mà trói ông và xốc ông lên khỏi hốc đá.

Ông vào đến Le-khi, thì người Phi-li-tinh reo hò ra đón ông. Bấy giờ khi thần khí của ĐỨC CHÚA ập xuống trên ông, thì những chiếc dây thừng trên cánh tay ông tựa như những sợi chỉ cháy xèo trong lửa và dây cột tay ông đều tuột xuống. Vớ được một hàm lừa còn tươi, ông đưa tay lượm lấy và dùng nó đánh chết một ngàn người. Ông Sam-sôn nói:

“Với một hàm lừa ta đã giết chúng từng đống,

với một hàm lừa ta đánh chết cả ngàn tên.”

Nói xong ông liệng chiếc hàm khỏi tay, và gọi nơi ấy là Ra-mát Le-khi. Ông khát quá, nên kêu cầu ĐỨC CHÚA rằng: “Ngài là Đấng đã dùng tay tôi tớ Ngài thực hiện cuộc chiến thắng vĩ đại này, mà chẳng lẽ giờ đây con lại phải chết khát và rơi vào tay những kẻ không cắt bì?” Bấy giờ Thiên Chúa xẻ khe đá ở Le-khi, nước liền vọt ra ; ông uống, thấy hồi sức và tỉnh táo lại. Bởi thế người ta gọi nơi ấy là Ên Ha Cô-rê ; suối ấy vẫn còn ở Le-khi cho tới ngày nay. Ông Sam-sôn làm thủ lãnh Ít-ra-en hai mươi năm trong thời người Phi-li-tinh cai trị.

 

Ngày 72 – Ông Sam-sôn bị Đa-li-la phản trắc

Thủ Lãnh 16,1-21

Ông Sam-sôn đến Ga-da. Tại đây ông gặp một cô điếm và đi với cô. Người ta báo cho những người Ga-da rằng: “Sam-sôn đã tới đây.” Họ liền bao vây và rình ông suốt đêm ấy ở cổng thành. Họ ở yên suốt đêm mà rằng: “Đợi đến tảng sáng, ta sẽ giết hắn.” Nhưng ông Sam-sôn nằm ngủ tới nửa đêm, và giữa đêm ông trỗi dậy, nắm lấy cánh cổng thành cùng với hai cây cột, nhổ luôn cả then ngang, rồi vác lên vai, đi trên đỉnh núi đối diện với Khép-rôn.

Sau đó ông phải lòng một phụ nữ tên là Đa-li-la, ở thung lũng Xô-rếch. Các vương hầu Phi-li-tinh lên gặp cô ta. Họ nói với nàng: “Cô hãy dụ hắn xem bởi đâu hắn có sức mạnh như thế, và chúng tôi phải dùng cách nào mới trị được hắn, trói làm sao mới khống chế được hắn, rồi mỗi người chúng tôi sẽ cho cô một ngàn mốt bạc v.”

Đa-li-la nói với ông Sam-sôn: “Nào cho em biết, em xin anh: bởi đâu anh có sức mạnh như thế? Trói làm sao mới khống chế anh được?” Ông Sam-sôn đáp: “Nếu trói anh bằng bảy dây cung mới, chưa phơi khô, thì anh sẽ mất sức và trở nên như bất cứ một người nào khác.” Các vương hầu Phi-li-tinh đem đến cho nàng bảy dây cung mới chưa phơi khô ; nàng dùng các dây ấy trói ông lại, đang khi cho người rình sẵn trong phòng. Nàng nói với ông: “Này anh Sam-sôn! Quân Phi-li-tinh đấy!” Ông liền giật đứt các dây cung như sợi đay đứt khi đụng vào lửa. Thế là sức mạnh của ông không bị tiết lộ.

Bấy giờ Đa-li-la nói với ông Sam-sôn: “Anh chỉ xí gạt em thôi, toàn nói xạo không à! Bây giờ hãy cho em biết, em xin anh: phải dùng cái gì mới trói được anh?” Ông nói với nàng: “Nếu trói chặt anh bằng những dây thừng mới, chưa dùng vào việc gì, thì anh sẽ mất sức và trở nên như bất cứ một người nào khác.” Đa-li-la liền lấy những dây thừng mới, trói ông lại, rồi nói: “Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy!” Đang khi cho người rình sẵn trong phòng. Nhưng ông đã giựt bung các dây thừng đó khỏi cánh tay như giựt một sợi chỉ.

Đa-li-la lại nói với ông Sam-sôn: “Đến bây giờ mà anh vẫn còn xí gạt em, toàn nói xạo không à! Hãy cho em biết phải dùng cái gì mới trói được anh!” Ông nói với nàng: “Nếu em kết tóc trên đầu anh thành bảy bím x, rồi cột vào dây thừng của khung dệt, đóng cọc siết cho chặt, thì anh sẽ mất sức và trở nên như bất cứ người nào khác.” Vậy nàng làm cho ông ngủ, đoạn kết tóc trên đầu ông thành bảy bím rồi cột vào dây thừng của khung dệt và đóng cọc siết cho chặt. Nàng nói với ông: “Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy!” Ông tỉnh giấc và bứng cả cọc, cả khung dệt, lẫn dây thừng của khung dệt.

Nàng lại nói với ông: “Làm sao anh nói là anh yêu em, trong khi anh không thật lòng với em? Đây là lần thứ ba anh xí gạt em và không tỏ cho em biết: bởi đâu anh có sức mạnh như thế?” Vì ngày nào nàng cũng dùng hết lời lẽ mà nài ép và làm khổ ông, khiến ông héo hắt đến chết được, ông thổ lộ hết tâm can với nàng, và nói: “Dao cạo chưa hề đụng đến đầu anh y, vì anh là một na-dia của Thiên Chúa từ lúc còn trong lòng mẹ. Nếu anh bị cạo đầu thì anh sẽ mất sức ngay, trở nên yếu nhược và như mọi người khác.” Đa-li-la thấy rằng ông đã thổ lộ hết tâm can với nàng, liền sai người đi gọi các vương hầu Phi-li-tinh và nói: “Lần này các ông hãy lên, vì anh ấy đã thổ lộ hết tâm can với tôi.” Các vương hầu Phi-li-tinh liền lên gặp nàng, mang sẵn bạc trong tay. Vậy nàng làm cho ông ngủ trên đầu gối mình, rồi kêu người cạo bảy bím tóc trên đầu ông ; nàng bắt đầu khống chế ông, và ông đã mất sức. Nàng nói: “Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy!” Ông tỉnh giấc và nói: “Mình sẽ bung ra như mọi lần và lại thoát thôi.” Nhưng ông đâu có biết: ĐỨC CHÚA không còn ở với ông nữa. Quân Phi-li-tinh bắt lấy ông, móc mắt và giải ông xuống Ga-da. Chúng chập xích đồng lại, cột ông và bắt ông kéo cối xay trong nhà tù.

 

Ngày 73 – Ông Sam-sôn trả thù rồi chết

Thủ Lãnh 16,22-31

Nhưng rồi từ cái đầu bị cạo trọc, tóc ông lại mọc ra. Các vương hầu Phi-li-tinh họp lại để long trọng tế thần Đa-gôn của chúng và ăn mừng. Chúng nói:

“Thần của ta đã trao vào tay ta tên Sam-sôn, kẻ thù của ta.”

Khi nhìn thấy ông, dân chúng reo hò tung hô thần của chúng và nói:

“Thần của ta đã trao vào tay ta tên Sam-sôn, kẻ thù của ta,

kẻ tàn phá xứ sở ta, kẻ tăng thêm số tử vong của ta.”

Trong khi lòng hả hê, chúng nói: “Hãy gọi Sam-sôn ra làm trò tiêu khiển cho chúng ta!” Vậy chúng kêu ông Sam-sôn từ nhà tù đến ; và ông làm trò tiêu khiển trước mặt chúng. Rồi chúng đặt ông đứng giữa các cột. Bấy giờ ông Sam-sôn nói với cậu thiếu niên đang dắt tay ông: “Cậu dẫn tôi đi và cho tôi sờ vào các cột cái chống đỡ toà nhà, để tôi dựa lưng.” Toà nhà lúc đó đầy chật đàn ông đàn bà. Tất cả các vương hầu Phi-li-tinh đều ở đó, và trên sân thượng có khoảng ba ngàn đàn ông đàn bà đang coi ông Sam-sôn làm trò tiêu khiển. Ông Sam-sôn kêu cầu ĐỨC CHÚA và thưa: “Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng của con, xin nhớ đến con và ban sức cho con lần này nữa thôi, ôi lạy Thiên Chúa, để chỉ đánh một trận là con trả thù được quân Phi-li-tinh đã móc mắt con.” Bấy giờ ông Sam-sôn rờ vào hai chiếc cột ở giữa, là những cột cái chống đỡ toà nhà, và ông tì vào các cột ấy, tay mặt bên này, tay trái bên kia. Rồi ông Sam-sôn nói: “Đành chết với bọn Phi-li-tinh vậy!” Đoạn ông dùng sức đẩy mạnh, và toà nhà sụp đổ đè các vương hầu và tất cả dân chúng có mặt ở đó. Thành ra số người ông giết được khi ông chết lại đông hơn số người ông đã giết được khi còn sống. Anh em ông và cả nhà cha ông xuống đưa ông về chôn cất giữa Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn trong phần mộ ông Ma-nô-ác, cha ông. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en được hai mươi năm.

 

Ngày 74 – Rút và bà Na-o-mi

Rút 1,1-22

Vào thời các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người cùng với vợ và hai con trai bỏ Bê-lem miền Giu-đa mà đến ở trong cánh đồng Mô-áp. Tên người đàn ông là Ê-li-me-léc, tên người vợ ấy là Na-o-mi và tên của hai con trai là Mác-lôn và Kin-giôn. Họ là người Ép-ra-tha thuộc xứ Bê-lem miền Giu-đa. Họ đến cánh đồng Mô-áp và ở lại đó. Rồi ông Ê-li-me-léc, chồng bà Na-o-mi, chết đi, còn lại bà Na-o-mi và hai đứa con. Hai người này lấy vợ Mô-áp, một người tên là Oóc-pa, người kia tên là Rút. Họ ở lại đó chừng mười năm. Rồi Mác-lôn và Kin-giôn cả hai đều chết, còn lại bà Na-o-mi mất chồng, mất con. Bà lên đường cùng với hai người con dâu, bỏ cánh đồng Mô-áp mà trở về quê hương, vì tại cánh đồng Mô-áp, bà nghe nói là ĐỨC CHÚA đã viếng thăm dân Người và cho họ có bánh ăn. Vậy bà cùng với hai con dâu ra khỏi nơi họ đã ở mà lên đường trở về xứ Giu-đa.

Bà Na-o-mi nói với hai con dâu: “Thôi, mỗi người chúng con hãy trở về nhà mẹ mình. Xin ĐỨC CHÚA tỏ lòng thương chúng con, như chúng con đã tỏ lòng thương những người quá cố và mẹ! Xin ĐỨC CHÚA cho mỗi người chúng con tìm được cuộc sống an nhàn dưới mái nhà một người chồng!” Rồi bà ôm hôn hai con dâu. Họ oà lên khóc. Họ thưa: “Chúng con muốn cùng mẹ trở về với dân của mẹ.” Bà Na-o-mi nói: “Các con ơi, về đi, theo mẹ làm gì? Trong lòng mẹ còn con trai nào nữa đâu mà gả chồng cho các con. Về đi, các con ơi! Đi đi! Mẹ quá già rồi, không còn tái giá được nữa. Cho dù mẹ có nói được: mẹ còn hy vọng, ngay đêm nay sẽ lấy chồng và sinh được con trai, thì chẳng lẽ chúng con cứ đợi mãi cho đến khi chúng lớn lên? Chẳng lẽ chúng con cứ ở vậy, không chịu lấy chồng? Không, các con ơi! Tình cảnh chúng con làm mẹ cay đắng lắm, vì tay ĐỨC CHÚA giáng phạt mẹ.” Hai người con dâu lại oà lên khóc. Oóc-pa ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Rút thì cứ khắng khít theo bà.

Bà Na-o-mi nói: “Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó và các thần của nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi!” Rút đáp: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì

mẹ đi đâu, con đi đó,

mẹ ở đâu, con ở đó,

dân của mẹ là dân của con,

Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.

Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó,

và nơi đó con sẽ được chôn cất.

Xin ĐỨC CHÚA phạt con thế này 

và thêm thế kia nữa,

nếu con lìa xa mẹ

mà không phải vì cái chết!”

Thấy Rút cứ một mực đi với mình, bà Na-o-mi không còn nói gì về chuyện đó nữa. Hai mẹ con cùng đi cho đến khi tới Bê-lem. Họ tới Bê-lem, làm cả thành xôn xao. Các người phụ nữ hỏi: “Có phải bà Na-o-mi đấy không?” Bà nói: “Đừng gọi tôi là Na-o-mi nữa, hãy gọi tôi là Ma-ra, vì Đấng Toàn Năng đã bắt tôi phải chịu quá nhiều cay đắng. Tôi ra đi, của cải dư đầy, ĐỨC CHÚA đem tôi về hai bàn tay trắng! Gọi tôi là Na-o-mi làm gì, trong khi ĐỨC CHÚA đã làm cho tôi tủi nhục, Đấng Toàn Năng đã để tôi đau khổ?”

Thế là từ cánh đồng Mô-áp, bà Na-o-mi trở về cùng với con dâu người Mô-áp là Rút. Họ đã đến Bê-lem vào đầu mùa gặt lúa mạch.