Tuần 17, ngày 110-116: Ê-li-sa được gọi | 365 ngày Hiệp hành với Lời Chúa
Ngày 110 – Ê-li-sa được gọi
1 Các Vua 19,1-21
Vua A-kháp kể cho I-de-ven nghe mọi chuyện ông Ê-li-a đã làm và tất cả sự việc ông dùng gươm hạ sát hết các ngôn sứ. Bà I-de-ven liền sai sứ giả đến nói với ông Ê-li-a rằng: “Xin các thần minh làm cho ta thế này, và còn hơn thế nữa, nếu giờ này sáng mai ta không biến mạng ngươi ra như mạng một trong các người ấy.” Thấy vậy, ông Ê-li-a trỗi dậy, ra đi để thoát mạng. Khi tới Bơ-e Se-va thuộc Giu-đa, ông để đứa tiểu đồng lại đấy, còn ông thì đi một ngày đường trong sa mạc. Ông đến ngồi dưới gốc một cây kim tước v. Ông xin cho được chết và nói: “Lạy ĐỨC CHÚA, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” x Rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng này có một thiên sứ đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn!” Ông đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá nung và một hũ nước. Ông ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống. Thiên sứ của ĐỨC CHÚA trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.” Ông dậy, ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khô-rếp, là núi của Thiên Chúa.
Ông vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Có lời ĐỨC CHÚA phán với ông: “Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?” Ông thưa: “Lòng nhiệt thành đối với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ còn sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng sống con.” Người nói với ông: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt ĐỨC CHÚA. Kìa ĐỨC CHÚA đang đi qua.” Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan ĐỨC CHÚA, nhưng ĐỨC CHÚA không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng ĐỨC CHÚA không ở trong trận động đất. Sau động đất là lửa, nhưng ĐỨC CHÚA cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông: “Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?” Ông thưa: “Lòng nhiệt thành đối với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con.”
ĐỨC CHÚA phán với ông: “Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước, qua sa mạc cho tới Đa-mát mà về. Tới nơi, ngươi sẽ xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram ; còn Giê-hu con của Nim-si, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ít-ra-en. Ê-li-sa con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi. Kẻ thoát gươm của Kha-da-ên sẽ bị Giê-hu giết ; người thoát tay Giê-hu sẽ bị Ê-li-sa giết. Nhưng Ta, Ta sẽ dành ra cho Ta bảy nghìn người trong Ít-ra-en: tất cả những kẻ đã không hề bái gối trước Ba-an, những môi miệng không hề hôn kính nó.”
Ông Ê-li-a bỏ đó ra đi và gặp ông Ê-li-sa là con ông Sa-phát đang cày ruộng ; trước mặt ông Ê-li-sa có mười hai cặp bò ; chính ông thì đi theo cặp thứ mười hai. Ông Ê-li-a đi ngang qua, ném tấm áo choàng của mình lên người ông Ê-li-sa. Ông này liền để bò lại, chạy theo ông Ê-li-a và nói: “Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông.” Ông Ê-li-a trả lời: “Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu?” Ông Ê-li-sa bỏ ông Ê-li-a mà về, bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Ê-li-a và phục vụ ông.
Ngày 111 – Truyện Vua A-kháp
1 Các Vua 21,1-29
Sau những sự việc đó, thì xảy ra chuyện ông Na-vốt người Gít-rơ-en có một vườn nho bên cạnh cung điện vua A-kháp, vua Sa-ma-ri. Vua A-kháp nói với ông Na-vốt rằng: “Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta, để ta làm vườn rau, vì nó ở ngay sát cạnh nhà ta. Để bù lại, ta sẽ cho ngươi một vườn nho tốt hơn, hay là, nếu ngươi muốn, giá bao nhiêu, ta sẽ trả bằng bạc.” Nhưng ông Na-vốt thưa với vua A-kháp: “Xin ĐỨC CHÚA đừng để tôi nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho ngài!”
Vua A-kháp trở về nhà buồn rầu và bực bội vì lời ông Na-vốt, người Gít-rơ-en đã nói với vua: “Tôi sẽ không nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho vua.” Vua nằm trên giường, quay mặt đi, và không chịu ăn uống gì. Hoàng hậu I-de-ven đi vào, nói với vua: “Tại sao tâm thần vua buồn rầu, và vua không chịu ăn uống gì như vậy?” Vua trả lời: “Tôi đã nói chuyện với Na-vốt người Gít-rơ-en và bảo nó: Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta mà lấy tiền, hoặc, nếu ngươi muốn, ta sẽ đổi cho một vườn nho khác. Nhưng nó lại nói: ‘Tôi không nhượng vườn nho của tôi cho vua được.’” Bấy giờ hoàng hậu I-de-ven nói với vua: “Vua cai trị Ít-ra-en hay thật! Mời vua dậy mà ăn cho lòng phấn khởi lên! Thiếp sẽ tặng vua vườn nho của Na-vốt người Gít-rơ-en.”
Bấy giờ, bà nhân danh vua A-kháp viết thư, rồi dùng con dấu của vua mà đóng ấn, và gửi cho các kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành với ông Na-vốt. Trong thư bà viết rằng: “Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh và đặt Na-vốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. Hãy đặt hai đứa vô lại ngồi đối diện với nó, để chúng tố cáo nó: ‘Ông đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua.’ Và hãy đem nó ra ngoài ném đá cho chết.”
Dân chúng, kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành làm theo lệnh bà I-de-ven như trong thư bà đã viết gửi cho họ. Họ công bố thời kỳ chay tịnh và đặt ông Na-vốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. Rồi có hai kẻ vô lại đi vào, ngồi đối diện với ông. Những kẻ vô lại ấy tố cáo ông Na-vốt trước mặt dân rằng: “Na-vốt đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua.” Họ liền đưa ông ra ngoài thành và ném đá ông. Ông đã chết. Họ sai người đi nói với bà I-de-ven: “Na-vốt đã bị ném đá chết.” Khi bà I-de-ven nghe biết ông Na-vốt đã bị ném đá chết, thì nói với vua A-kháp: “Xin vua đứng dậy và chiếm đoạt vườn nho của Na-vốt, người Gít-rơ-en, kẻ đã từ chối không chịu nhượng cho ngài để lấy tiền, vì Na-vốt không còn sống nữa, nó chết rồi.” Khi nghe biết ông Na-vốt đã chết, vua A-kháp đứng dậy, xuống chiếm đoạt vườn nho của ông Na-vốt, người Gít-rơ-en.
Có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Ê-li-a, người Tít-be, rằng: “Ngươi hãy đứng dậy, xuống gặp A-kháp, vua Ít-ra-en, ở Sa-ma-ri. Này, nó đang ở trong vườn nho của Na-vốt, vì nó đã xuống chiếm đoạt vườn nho ấy. Ngươi hãy nói với nó rằng: ‘ĐỨC CHÚA phán thế này: Ngươi đã giết hại, lại còn chiếm đoạt nữa ư? –ngươi hãy nói với nó–, ĐỨC CHÚA phán thế này: Tại chính nơi chó đã liếm máu Na-vốt, thì chó cũng sẽ liếm máu ngươi.’” Vua A-kháp nói với ông Ê-li-a: “Hỡi kẻ thù của ta, ngươi đã bắt được ta.” Ông đáp: “Tôi đã bắt được ngài làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA. Này, Ta sẽ giáng tai hoạ xuống trên ngươi: Ta sẽ xoá sạch hậu duệ ngươi, Ta sẽ tiêu diệt các đàn ông con trai của A-kháp trong Ít-ra-en, đang bị ràng buộc hay được tự do. Ta sẽ làm cho nhà ngươi nên như nhà Gia-róp-am, con của Nơ-vát, và như nhà Ba-sa con của A-khi-gia, vì ngươi đã chọc giận Ta và đã làm cho Ít-ra-en phạm tội.” ĐỨC CHÚA cũng tuyên án phạt I-de-ven rằng: “Chó sẽ ăn thịt I-de-ven trong cánh đồng v Gít-rơ-en. Kẻ nào thuộc về A-kháp mà chết trong thành thì sẽ bị chó ăn thịt x, người chết ngoài đồng sẽ bị chim trời rỉa thây.”
Thật, không hề có ai như vua A-kháp, đã liều lĩnh y làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, vì bị hoàng hậu I-de-ven xúi giục. Vua sẽ làm chuyện rất ghê tởm là đi theo các tượng thần, như dân E-mô-ri, những kẻ ĐỨC CHÚA đã đuổi khuất mắt con cái Ít-ra-en.
Khi nghe những lời ấy, vua A-kháp xé áo mình ra, khoác áo vải bố bám sát vào thịt, ăn chay, nằm ngủ với bao bì và bước đi thiểu não. Bấy giờ có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Ê-li-a, người Tít-be, rằng: “Ngươi có thấy A-kháp đã hạ mình trước mặt Ta thế nào không? Vì nó đã hạ mình trước mặt Ta, nên Ta sẽ không giáng hoạ trong buổi sinh thời của nó, nhưng đến đời con nó, Ta sẽ giáng hoạ xuống nhà nó.”
Ngày 112 – Vua A-kháp tử trận
1 Các Vua 22,29-40
Vua Ít-ra-en và Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, lên Ra-mốt Ga-la-át. Vua Ít-ra-en nói với vua Giơ-hô-sa-phát: “Tôi sẽ cải trang và ra trận x ; còn ngài, thì xin cứ mặc áo của ngài.” Vua Ít-ra-en cải trang và ra trận. Vua A-ram đã ra lệnh cho ba mươi hai người chỉ huy chiến xa của vua rằng: “Các ngươi không đánh ai, dù nhỏ hay lớn, chỉ đánh một mình vua Ít-ra-en thôi.” Khi các người chỉ huy chiến xa nhìn thấy vua Giơ-hô-sa-phát thì nói: “Đúng là vua Ít-ra-en đây rồi,” và dồn lực lượng tấn công vua, nhưng vua Giơ-hô-sa-phát thét lên. Khi thấy rằng đó không phải là vua Ít-ra-en thì các người chỉ huy chiến xa không đuổi theo nữa. y
Một người giương cung bắn đại, lại trúng ngay vua Ít-ra-en vào giữa khớp của áo giáp. Vua liền bảo người đánh xe: “Quay xe lại, đưa ta ra khỏi chiến trường, vì ta đã bị thương.” Nhưng trận chiến hôm ấy trở nên ác liệt, và người ta đã cho vua đứng trên xe, đối diện với quân A-ram, và đến chiều thì vua chết ; máu từ vết thương chảy cả vào lòng xe. Lúc mặt trời lặn, có tiếng kêu vang lên khắp trại rằng: “Ai nấy về thành mình, ai nấy về xứ mình! Vì vua đã chết!” Họ đưa vua về Sa-ma-ri và chôn cất vua tại đó. Người ta xối nước rửa xe, cạnh hồ nước ở Sa-ma-ri ; chó liếm máu vua và gái điếm tắm rửa trong hồ ấy, đúng như lời ĐỨC CHÚA đã phán.
Các truyện còn lại về vua A-kháp, các việc vua làm, điện ngà vua xây, các thành vua kiến thiết, đều đã được ghi chép trong sách Sử Biên Niên các vua Ít-ra-en. Vua A-kháp an nghỉ với tổ tiên. Con vua là A-khát-gia-hu lên ngôi kế vị.
Ngày 113 – Ông Ê-li-sa thay thế Ê-li-a
2 Các Vua 2,1-12
Vào thời ĐỨC CHÚA đem ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc, ông Ê-li-a và ông Ê-li-sa rời Ghin-gan. Ông Ê-li-a nói với ông Ê-li-sa: “Xin anh ở lại đây, vì ĐỨC CHÚA sai thầy đến Bết Ên.” Nhưng ông Ê-li-sa thưa: “Có ĐỨC CHÚA hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy!” Rồi các ông đi xuống Bết Ên. Các anh em ngôn sứ ở Bết Ên ra gặp ông Ê-li-sa và nói: “Ông có biết không, hôm nay ĐỨC CHÚA sẽ đem thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông?” Ông nói: “Tôi cũng biết chứ, im đi!” Ông Ê-li-a bảo ông: “Này Ê-li-sa, xin anh ở lại đây, vì ĐỨC CHÚA sai thầy đi Giê-ri-khô.” Nhưng ông Ê-li-sa thưa: “Có ĐỨC CHÚA hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy!” Và các ông đã đến Giê-ri-khô. Các anh em ngôn sứ ở Giê-ri-khô đến gần ông Ê-li-sa và nói: “Ông có biết không, hôm nay ĐỨC CHÚA sẽ đem thầy của ông lên cao, ngay trên đầu ông?” Ông nói: “Tôi cũng biết chứ, im đi!” Ông Ê-li-a bảo: “Xin anh ở lại đây, vì ĐỨC CHÚA sai thầy đến sông Gio-đan.” Nhưng ông thưa: “Có ĐỨC CHÚA hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy!” Rồi cả hai ông cùng đi.
Năm mươi anh em ngôn sứ cũng đi, đứng ở đằng xa, phía trước hai ông, còn hai ông thì đứng bên bờ sông Gio-đan. Ông Ê-li-a lấy áo choàng của mình, cuộn lại mà đập xuống nước. Nước rẽ ra hai bên. Hai ông đã đi qua ráo chân.
Vậy, khi đã đi qua, ông Ê-li-a nói với ông Ê-li-sa: “Anh cứ xin đi: thầy có thể làm gì cho anh trước khi thầy được đem đi, rời xa anh?” Ông Ê-li-sa nói: “Xin cho con được hai phần thần khí của thầy!” Ông Ê-li-a đáp: “Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế ; bằng không, thì không được.” Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời v trong cơn gió lốc. Thấy thế, ông Ê-li-sa kêu lên: “Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Ít-ra-en x!” Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh y.
Ngày 114 – Hai phép lạ của ông Ê-li-sa
2 Các Vua 2,13-25
Ông lượm lấy áo choàng của ông Ê-li-a rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan.
Ông lấy áo choàng của ông Ê-li-a đã rơi xuống mà đập xuống nước và nói: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông Ê-li-a ở đâu?” Ông đập xuống nước, nước rẽ ra hai bên, và ông Ê-li-sa đi qua. Các anh em ngôn sứ Giê-ri-khô thấy ông ở đằng xa thì nói: “Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa.” Họ đến đón ông và sụp xuống đất lạy ông. Họ thưa ông: “Tại đây có năm mươi người dũng cảm đang ở với các tôi tớ ngài. Xin cho phép họ đi tìm thầy của ngài. Biết đâu thần khí của ĐỨC CHÚA đã chẳng đem người đi, rồi thả xuống một ngọn núi hay một thung lũng nào đó” ; nhưng ông nói: “Đừng sai ai đi cả!” Họ cứ một mực nài ép ông, nên ông bảo: “Thì cứ sai đi!” Họ sai năm mươi người đi kiếm suốt ba ngày, nhưng không tìm thấy ông Ê-li-a. Họ trở về với ông. Ông đang ở Giê-ri-khô, ông nói với họ: “Tôi đã chẳng bảo các anh là đừng đi đó sao?”
Người trong thành nói với ông Ê-li-sa: “Như ngài thấy đó, địa thế của thành thì tốt, nhưng nước thì độc và xứ sở bị nạn vô sinh.” Ông Ê-li-sa bảo: “Lấy cho tôi một cái tô mới và bỏ muối vào đó.” Họ đi lấy cho ông. Ông đi ra suối nước, đổ muối xuống và nói: “ĐỨC CHÚA phán thế này: Ta làm cho nước hoá lành, và nước này sẽ không còn gây chết chóc và nạn vô sinh nữa.” Và nước hoá lành cho đến ngày nay, theo lời ông Ê-li-sa đã nói.
Ông rời nơi đó lên Bết Ên. Và khi ông đi lên, thì dọc đường có những trẻ con từ thành đi ra, chúng nhạo ông và nói: “Lên đi, ông hói đầu ơi! Lên đi, ông hói đầu ơi!” Ông quay lại, và khi thấy chúng thì nguyền rủa chúng nhân danh ĐỨC CHÚA. Bấy giờ, có hai con gấu từ trong rừng đi ra và xé xác bốn mươi hai đứa trẻ. Từ nơi đó, ông đi tới núi Các-men, rồi trở lại Sa-ma-ri.
Ngày 115 – Ông Na-a-man được chữa khỏi bệnh phong
2 Các Vua 5,1-27
Ông Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram, là người có thần thế và uy tín trước mặt chúa thượng của ông, vì ĐỨC CHÚA đã dùng ông mà ban chiến thắng cho A-ram. Nhưng ông lại mắc bệnh phong. Khi những người A-ram đi càn quét, họ đã bắt được một cô bé từ đất Ít-ra-en đưa về. Nó vào giúp việc cho vợ ông Na-a-man. Nó nói với bà chủ: “Ôi, phải chi ông chủ con được giáp mặt vị ngôn sứ ở Sa-ma-ri, thì chắc ngôn sứ sẽ chữa ông khỏi bệnh phong!” Ông Na-a-man đến tường trình với chúa thượng của ông: “Một thiếu nữ xuất thân từ đất Ít-ra-en đã nói thế này thế này.” Vua A-ram bảo: “Ngươi cứ lên đường và trẩy đi. Ta sẽ gửi thư cho vua Ít-ra-en.” Ông Na-a-man lên đường, mang theo ba trăm ký bạc, sáu mươi ký vàng và mười bộ quần áo để thay đổi. Ông trình thư lên vua Ít-ra-en. Thư viết: “Cùng với bức thư mà tôi gửi tới ngài đây, tôi sai Na-a-man, thuộc hạ của tôi, đến với ngài, để ngài chữa người này khỏi bệnh phong.” Vua Ít-ra-en đọc thư xong thì xé áo mình ra và nói: “Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phong? Các ngươi phải biết, phải thấy rằng ông ấy muốn sinh sự với ta.”
Vậy, khi ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, nghe biết là vua Ít-ra-en đã xé áo mình ra, thì sai người đến nói với vua: “Sao vua lại xé áo mình ra? Người ấy cứ đến với tôi, thì sẽ biết là có một ngôn sứ ở Ít-ra-en.” Ông Na-a-man đi đến cùng với cả xe và ngựa. Ông đứng trước cửa nhà ông Ê-li-sa. Ông Ê-li-sa sai sứ giả ra nói với ông: “Ông hãy đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan. Da thịt ông sẽ trở lại như trước, và ông sẽ được sạch.” Ông Na-a-man nổi giận bỏ đi và nói: “Ta cứ nghĩ bụng là thế nào ông ấy cũng đích thân đi ra, rồi đứng mà cầu khẩn danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông ta. Ông ta sẽ huơ tay lên đúng chỗ phong mà chữa khỏi. Nước các sông A-va-na và Pác-pa ở Đa-mát chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Ít-ra-en sao? Ta lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch hay sao?” Ông quay lưng lại và tức tối ra đi. Bấy giờ, các tôi tớ của ông đến gần và nói: “Cha ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó, chẳng lẽ cha lại không làm? Phương chi ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch!” Vậy ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.
Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông vào, đứng trước mặt ông ấy và nói: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây.” Ông Ê-li-sa nói: “Có ĐỨC CHÚA hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả.” Ông Na-a-man nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối. Ông Na-a-man nói: “Nếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài ĐỨC CHÚA. Nhưng xin ĐỨC CHÚA tha thứ điều này cho tôi tớ ngài: Khi ông chủ tôi vào điện của thần Rim-môn để sụp xuống lạy, và khi ông ấy vịn vào cánh tay tôi, thì tôi cũng phải sụp xuống lạy trong điện của thần Rim-môn cùng lúc với ông. Xin ĐỨC CHÚA tha thứ điều ấy cho tôi tớ ngài!” Ông Ê-li-sa bảo: “Ông đi bằng an!” và ông Na-a-man đi khỏi chỗ ông Ê-li-sa được một quãng đường.
Khi đó, Giê-kha-di, tiểu đồng của ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, nghĩ bụng: “Chủ ta đã giữ gìn không nhận những gì ông Na-a-man, người A-ram, tự tay đem dâng. Có ĐỨC CHÚA hằng sống, ta sẽ chạy theo ông ấy để nhận được chút gì chứ!” Giê-kha-di liền đuổi theo ông Na-a-man. Khi thấy Giê-kha-di chạy theo mình, ông Na-a-man từ trên xe nhảy xuống gặp nó, và hỏi: “Mọi sự đều yên ổn chứ?” Nó trả lời: “Mọi sự đều yên ổn. Chủ tôi sai tôi đi nói với ông: ‘Vừa rồi có hai thanh niên thuộc nhóm các ngôn sứ đến với tôi từ vùng núi Ép-ra-im. Xin ông cho họ ba mươi ký bạc và hai bộ quần áo để thay đổi.’” Ông Na-a-man nói: “Anh vui lòng nhận lấy sáu mươi ký.” Rồi ông ép nó nhận. Ông nhét sáu mươi ký bạc trong hai bị cùng với hai bộ quần áo để thay đổi, rồi đưa cho hai người tớ trai mang đi trước mặt nó. Khi tới Ô-phen, nó lấy những thứ đó từ tay họ, đem cất vào nhà, rồi từ giã những người ấy, và họ trẩy đi.
Còn nó, nó vào hầu chủ. Ông Ê-li-sa hỏi: “Giê-kha-di, mày đi đâu về?” Nó đáp: “Tôi tớ ngài không có đi đâu cả.” Ông Ê-li-sa bảo: “Trí ta đã chẳng ở đó khi có người xuống xe gặp mày sao? Giờ đây, mày đã nhận tiền bạc, mày có thể sắm quần áo, tậu vườn, vườn ô-liu và vườn nho, mua bò dê chiên cừu và tôi trai tớ gái. Nhưng bệnh phong của ông Na-a-man sẽ mãi mãi bám lấy mày và dòng dõi mày.” Giê-kha-di rời ông Ê-li-sa ; nó mắc bệnh phong, mốc thếch như tuyết v.
Ngày 116 – Truyện bà A-than-gia
2 Các Vua 11,1-20
Bà A-than-gia, thân mẫu vua A-khát-gia-hu, thấy con mình đã chết, thì đứng lên tiêu diệt tất cả hoàng tộc. Nhưng bà Giơ-hô-se-va, ái nữ vua Giô-ram và là chị của vua A-khát-gia-hu, đã ẵm Giô-át, con vua A-khát-gia-hu, lén đưa cậu ra khỏi số các hoàng tử sẽ bị sát hại, giấu trong phòng ngủ cùng với người vú nuôi. Như thế, người ta đã giấu được cậu bé khuất mắt bà A-than-gia, và cậu không bị giết. Cậu Giô-át ở lại với bà Giơ-hô-se-va trong Nhà ĐỨC CHÚA, lẩn trốn ở đó sáu năm, suốt thời bà A-than-gia cai trị xứ sở.
Năm thứ bảy, ông Giơ-hô-gia-đa sai người đi mời các vị chỉ huy một trăm quân thuộc đạo binh Ca-ri và thuộc đoàn thị vệ. Ông cho họ vào trong Nhà ĐỨC CHÚA với ông. Ông kết ước với họ, bắt họ tuyên thệ trong Nhà ĐỨC CHÚA, và cho họ được thấy hoàng tử. Ông truyền lệnh cho họ như sau: “Đây là điều các ông phải làm: Một phần ba các ông, những người đang phiên trực ngày sa-bát, sẽ canh giữ đền vua, một phần ba sẽ đứng ở cửa Xua, và một phần ba ở cửa phía sau đoàn thị vệ. Các ông sẽ luân phiên v nhau canh giữ đền vua. Hai đội khác của các ông, những người hết phiên trực ngày sa-bát, sẽ canh giữ Nhà ĐỨC CHÚA x. Các ông sẽ đứng chung quanh vua, ai nấy đều cầm khí giới trong tay. Kẻ nào xâm phạm hàng ngũ các ông, thì sẽ bị xử tử. Khi vua đi ra đi vào, các ông luôn phải ở bên cạnh vua.”
Các vị chỉ huy một trăm quân làm đúng mọi điều tư tế Giơ-hô-gia-đa đã truyền. Mỗi vị chỉ huy đem theo người của họ, những người đang phiên trực ngày sa-bát, cùng với những người hết phiên trực ngày sa-bát. Họ đến với tư tế Giơ-hô-gia-đa. Tư tế trao cho các vị chỉ huy trăm quân: giáo và thuẫn của vua Đa-vít để trong Nhà ĐỨC CHÚA. Các thị vệ ai nấy đều cầm khí giới trong tay, đứng dàn từ phía nam đến phía bắc Nhà ĐỨC CHÚA, trước bàn thờ và trước Nhà ĐỨC CHÚA cốt để bao quanh vua. Ông Giơ-hô-gia-đa rước hoàng tử ra, đội vương miện y và trao cuộn Chứng Ước. Người ta phong vương và xức dầu cho hoàng tử, rồi vỗ tay hô lên: “Vạn tuế đức vua!”
Khi bà A-than-gia nghe tiếng dân chúng la, bà đi về phía họ đang ở trong Nhà ĐỨC CHÚA. Bà nhìn lên, thì kìa vua đứng trên bệ cao theo nghi lễ vẫn thường cử hành, các vị chỉ huy và các người thổi kèn ở bên cạnh vua. Toàn dân trong xứ hân hoan reo hò giữa tiếng kèn trổi vang. Bà A-than-gia liền xé áo mình ra và kêu lên: “Phản loạn! Phản loạn!” Tư tế Giơ-hô-gia-đa truyền lệnh cho các vị chỉ huy một trăm quân đứng đầu toán binh, ông bảo họ: “Lôi nó ra khỏi hàng quân! Ai theo nó, thì lấy gươm chém chết!” Quả thật, tư tế đã từng nói: “Nó không được chết trong Nhà ĐỨC CHÚA!” Họ liền túm lấy bà. Và khi bà đi qua lối Cửa Ngựa để tới đền vua ; thì họ giết bà ở đó.
Ông Giơ-hô-gia-đa lập giao ước giữa ĐỨC CHÚA, vua và dân, nhờ đó dân trở thành dân của ĐỨC CHÚA. Ông cũng lập giao ước giữa vua và dân. Toàn dân trong xứ kéo tới phá huỷ đền Ba-an, rồi đập nát các bàn thờ và tượng thần. Còn Mát-tan, tư tế của thần Ba-an, thì họ giết ngay trước các bàn thờ.
Tư tế Giô-hô-gia-đa đặt những trạm canh để giữ Nhà ĐỨC CHÚA.Rồi ông đem theo các vị chỉ huy một trăm quân, quân Ca-ri, các thị vệ và toàn dân trong xứ. Họ rước vua từ Nhà ĐỨC CHÚA xuống, sau đó đi qua Cửa Các Thị Vệ mà tới đền vua. Vua Giô-át ngự lên ngai vua. Toàn dân trong xứ thì vui mừng, còn thành vẫn không động tĩnh. Về phần bà A-than-gia, họ đã lấy gươm giết chết trong đền vua.