12 Thánh Tử Đạo Bắc Ninh: Thánh Amato Bình và Thánh Vinhsơn Đỗ Yến
8. THÁNH ALMATO BÌNH
LINH MỤC DÒNG ĐAMINH
Thánh Bình (pdf)
Chân dung của Thánh Almatô Bình được phác họa dưới hình một Tu sĩ Đaminh có vầng trán rộng của sự thông minh, với bộ râu của người đầy nghị lực. Cặp mắt ngài đăm đăm nhìn xuống: Tay phải cầm ngành lá vạn tuế, một chuỗi mân côi và một thanh đao to bản ; Tay trái khẽ nâng cao mũi dao, với ngón tay cái đang chạm vào lưỡi, như muốn thử nó sắc cỡ nào và trên môi hé nở một nụ cười. Bức chân dung ấy nói lên hai đặc điểm của vị Thánh: Kính tin vào Đức Trinh Nữ Maria và suốt đời trân trọng phúc tử đạo. Không tìm cái chết, nhưng rất vui tươi khi được đón nhận.
Phêrô Almatô chào đời vào lễ Các Thánh 01.11.1831 tại làng Santo Felice Saserra, xứ Vich, miền Cataluna nước Tây Ban Nha. Thân phụ cậu là ông Salvio Almatô làm nghề y sĩ và thân mẫu là bà Antinia. Cậu có một người bác là Linh mục kinh sĩ phụ trách giải tội cho khắp Giáo phận và người em gái sau cũng đi tu.
Từ thơ ấu, cậu Almatô đã có những dấu hiệu hâm mộ đời tu trì. Khi ngồi một mình, cậu thích xếp hình các nhà thờ hoặc bắt trước các Linh mục dâng lễ. Thỉnh thoảng cậu tập họp các trẻ nhỏ tuổi hơn để cùng đọc Kinh Mân Côi, hoặc kể chuyện giáo lý cho chúng nghe. Năm 15 tuổi, gia đình cho cậu vào chủng viện. Tại đây, Almatô có cơ hội đọc các bản tin về truyền giáo của tỉnh dòng Đaminh Mân Côi tại Viễn Đông. Từ đó, khát vọng truyền giáo luôn sục sôi trong lòng cậu. Khi được Đức Giám mục Claret khuyến khích, Almatô quyết định giã từ bạn bè và gia đình để đến Ocanã xin vào dòng Đaminh. Sau thời gian thử thách, ngày 25.09.1847, cậu Almatô được lãnh tu phục vào tập viện, và ngày 26.09.1848, cậu tuyên khấn, thành thầy Almatô từ đó.
Tháng 09.1849, thầy Almatô đến Manila tiếp tục học thần học. Ngoài những giờ miệt mài học tập, thầy thích tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng. Năm 1854, thầy được thụ phong Linh mục và năm sau được phái đến phục vụ tại Việt Nam. Ngày 04.08.1855, cha Almatô đến Giáo phận Đông Đàng Ngoài. Khi mới đến Việt Nam, cha Almatô nhận tên là Bình, ở lại Nam Am và Đông Xuyên. Sau đó, cha Almatô về chủng viện Kẻ Mốt để học tiếng Việt với cha Gaspar Nghĩa, rồi được cử đi phụ trách xứ Thiết Nham hơn một năm. Tình trạng sức khỏe của cha Almatô Bình thật yếu kém, cha bị bệnh thường xuyên. Nhưng bên trong thân xác yếu đuối đó là một khối nghị lực tưởng chừng như vô tận, đủ sức đưa cha vượt mọi khó khăn thử thách của môi trường truyền giáo.
Từ năm 1857, cuộc bách hại ngày càng khốc liệt, cha Bình bó buộc phải nay đây mai đó, ít khi được yên ổn. Ban ngày phải trốn trong hầm ẩm thấp. Ban đêm mới ra ngoài, đi thuyền cách kín đáo đến phục vụ giáo hữu hai bên sông. Những hôm bị bao vây bất ngờ, cha phải ngủ trong bụi rậm, bụi tre hoặc phải băng sông lội suối dưới trời mưa lạnh giá. Bệnh tật, đói rách và nguy cơ bị bắt, ba tai họa thường xuyên đe dọa cha. Nhưng vị tông đồ của Chúa đã thắng, vượt được tất cả nhờ chí khí can trường và tinh thần hăng say của tuổi trẻ. Khi tình hình cấm đạo trở lên gay gắt hơn, các Thừa sai Đaminh quyết định chia một nửa tạm lánh sang Macao, cha Bình tình nguyện xin ở lại Việt Nam. Trong một thư gửi cho gia đình cha viết: “Con và một Linh mục nữa đã ẩn mình bẩy, tám tháng nay trong một nhà có sẵn hang ở dưới lòng đất để núp khi quan quân vây bắt. Nhưng nay mai nếu cha mẹ có nghe tin con bị bắt thì xin cha mẹ đừng khóc làm chi. Hãy vui mừng vì con được phúc trọng dường ấy”.
Từ tháng 08.1861, dưới ảnh hưởng của chiếu chỉ phân sáp, hàng Giáo sĩ dường như không thể tìm được chỗ nào an toàn để ẩn náu. Cha Almatô Bình trước đã rời Thiết Nham sang Kẻ Nê rồi ẩn ở Thọ Ninh, sau lại xuống thuyền đi với Đức cha Valentino Vinh xuôi theo dòng sông Thái Bình. Đến Hải dương, hai vị gặp Đức cha Hermosilla Liêm và thầy giảng Giuse Khang. Ngày 20.10.1861, khi Đức cha Liêm và thầy giảng Giuse Khang bị bắt, thì cha Bình và Đức cha Vinh cũng đang ở trên một thuyền khác, nhưng may mắn đã chạy thoát được.
Sau biến cố đó, hai vị thấy trốn trên thuyền không yên ổn nữa, nên khi một giáo hữu là ông Cựu Trọng giới thiệu hai vị tới trọ tại một người ngoại giáo là ông lang Thửa, hai vị đã đến đó và được tiếp đón niềm nở. Tuy nhiên người cháu của ông lang là Khán Cáp, khi biết tin này, liền báo với quan để lãnh thưởng. Để khỏi mang tiếng xấu, anh ta mời các vị Thừa sai đi ẩn chỗ khác, dẫn hai vị ra đồng ruộng cho quan huyện Thanh Hà đến bắt. Hôm đó là ngày 25.10.1861.
Quan Tổng đốc Hải Dương là Nguyễn Quốc Cẩm thấy các Giáo sĩ Tây có dáng vẻ hiền lành nên không đành tâm đối xử tàn nhẫn. Ông chỉ điều tra qua loa về tên tuổi và việc giảng đạo. Cha Bình trả lời: “Tôi là Linh mục, tên tôi là Bình, người Y Pha Nho, sang An Nam giảng đạo được bảy năm tại nhiều nơi”. Nhưng cha không nói rõ địa điểm nào cả. Tuy quan Tổng đốc cho giam mỗi vị vào một cũi, nhưng ông ra lệnh cho viên cai ngục phải đối xử tử tế và nghiêm cấm ăn nói lỗ mãng. Thái độ “nương tay” trên đã được đồn đại đến tai Tổng đốc Nam Định Nguyễn Đình Tân, ông đích thân ra Hải Dương và dùng quyền ép viên Tổng đốc ở đây phải lên án trảm quyết. Ngày 01.11.1861, đúng ngày cha Almatô tròn 30 tuổi, trở thành ngày sinh nhật trên trời của cha cùng hai vị Giám mục Hermosilla Liêm và Berrio Ochoa Vinh.
Ngày xử án, ba chiếc cũi được khiêng đi sau toán lính đông đảo. Cha Bình trong cũi đầu tiên, tay cầm chuỗi Mân Côi bình thản cầu nguyện khiến mọi người hiện diện phải ngỡ ngàng. Tại pháp trường Năm Mẫu, sau ít phút cầu nguyện, lý hình đã chém đầu các ngài trong tiếng chiêng đổ dồn. Thi thể ba vị được chôn cất ngay tại nơi xử án, sau dời về Thọ Ninh. Hiện nay, thủ cấp cha Almatô Bình được tôn kính ở quê hương Tây Ban Nha, còn hài cốt của cha được an táng trong thánh đường kính bốn thánh tử đạo Hải Dương.
Ngày 20.05.1906 Đức Piô X đã tôn phong cha Phêrô Almatô Bình, dòng Đaminh lên bậc Chân Phước, và ngày 19.06.1988, Đức Gioan Phaolô II đã tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
9. THÁNH VINH SƠN ĐỖ YẾN, LINH MỤC,
TỬ ĐẠO NGÀY 30.6.1838
Thánh Vinh Sơn Đỗ Yến chào đời năm 1764, tại Giáo họ Bắc Tỉnh, xứ Phú Nhai, Giáo phận Bùi Chu (Xưa là làng Trà Lũ, Tổng Trà Lũ, tỉnh Nam Định – Nay thuộc xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Cậu Vinh Sơn Yến theo lời Chúa gọi sống đời tu trì ngay từ thời niên thiếu. Thầy được Đức Giám mục Delgado Y phong chức Linh mục năm 1798. Cuộc đời tông đồ của ngài tưởng như kết thúc ngắn ngủi, vì ngài đã bị bắt trong cơn cấm đạo cuối đời cảnh Thịnh. Nhưng may mắn nhờ các tín hữu dùng tiền chuộc lại, cha đã được tha về.
Ngày 22.07.1807, cha Vinh Sơn Đỗ Yến lãnh áo dòng Đaminh và được tuyên khấn năm sau. Đời tu dòng giúp cha kết hiệp mật thiết hơn với tình yêu Chúa. Ngài sống rất khiêm tốn, thường hy sinh hãm mình và thầm lặng lâu giờ trong chiêm niệm. Tâm hồn luôn bùng cháy lòng mến yêu, cha nhiệt tâm với việc tông đồ truyền giáo, không nề quản mệt nhọc, hiểm nguy đến tính mạng. Dưới triều Gia Long (1802-1820) và đầu thời Minh Mệnh cha Vinh Sơn Yến thi hành sứ vụ tông đồ trong bầu không khí bình an. Thoạt tiên cha đảm trách giáo xứ Kẻ Mốt[1], sau chuyển sang xứ Kẻ Sặt[2], thuộc tỉnh Hải Dương. Nơi nào Ngài cũng hết mình củng cố đức tin cho các tín hữu và hoán cải nhiều người ngoại giáo tin theo đạo Chúa. Các tín hữu đã gặp ngài cho biết ngài luôn vui vẻ, khôn ngoan, bình tĩnh, dịu hiền và thánh thiện. Trong hồ sơ phong thánh cho cha, một nhân chứng đã quả quyết: “Cha Yến là một vị đầy lòng từ bi bác ái, tính tình rất dễ thương, đồng thời cũng đầy cương nghị, nét mặt lúc nào cũng vui vẻ. Khi sống giữa giáo dân ngài luôn sẵn sàng lo lắng cho con chiên và tận tụy hết mình. Sống giữa anh em dòng, ngài luôn quên mình và thích sống ẩn dật. Ngài không bỏ qua một cơ hội nào mà không giúp đỡ những người chung quanh. Ngài rất nhân từ, hiền lành vui vẻ và có trí phán đoán sâu sắc. Tất cả tâm hồn ngài tập trung mỗi khi dâng lễ và trao ban các Bí tích“.
Năm 1838, vua Minh Mệnh truyền cho các quan phải triệt để thi hành chiếu chỉ cấm đạo tại các Giáo phận Đàng Ngoài. Nhiều Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, Giáo hữu đã hy sinh mạng sống vì trung thành với đức tin. Vì thương đoàn chiên đang cảnh ngộ gian nan, ngài ở lại giữa họ, nay ở nhà này, mai ở nhà khác. Ban đêm lo kinh sách phụng vụ, dâng lễ… Ban ngày cha đến khuyên bảo các tín hữu và ban Bí tích cho họ.
Khi hay tin cha Vinh Sơn Yến vẫn còn ẩn trốn trong xứ Kẻ Sặt, các quan liền cho tăng cường kiểm soát chặt chẽ, quyết lùng bắt ngài cho kỳ được, và dọa sẽ tàn phá bình địa làng Sặt. Vì muốn giáo hữu được yên ổn, vị chủ chăn âm thầm ra đi, mang theo nỗi niềm đau xót phải xa cách đoàn chiên yêu quý. Cha hoàn toàn tín thác mọi sự trong bàn tay quan phòng của Chúa.
Ngày 08.06 cha tình cờ gặp ông Cai Phan, ông ta làm bộ thương cảm nài nỉ ngài nên đến ở nhà mình sau trở mặt bắt ngài và đóng gông giải về Hải Dương. Khi hay tin, giáo xứ Kẻ Sặt và Lực Điền đem trâu và tiền đến chuộc, nhưng ông Cai nhất định không cho vì hy vọng được quan ban thưởng nhiều hơn. Cha Vinh Sơn Yến phải hết lời khuyên can mới ngăn được hai họ khỏi dùng vũ lực để giải thoát ngài.
Cha bị tạm giam tại Hải Dương 3 ngày, sau đó được đưa ra trước công đường. Quan tuần phủ tỉnh này vốn lòng nhân hậu, lại có lời can thiệp của ông lang Hàn, y sĩ chữa bệnh cho quan, nên không muốn vấy máu người có đạo. Ông xin vị Linh mục tự nhận là lang y để ông phóng thích. Vị chứng nhân trả lời: “Không, tôi không phải là thầy lang. Tôi là thầy cả chuyên giảng đạo và tế lễ Thiên Chúa. Tôi sẵn lòng chịu chết vì lẽ đó, chứ không nói dối để được sống”.
Quan tìm cách khác để trả tự do cho cha Yến. Ông truyền vẽ một vòng tròn xung quanh chỗ cha đứng, bảo ngài bước qua đó như bước quan Thánh Giá vậy. Một lần nữa vị tuyên xưng đức tin lại cương quyết từ chối: “Làm như thế không khác nào tôi chối đạo”. Quan tuần phủ thấy không thể làm lay chuyển đức tin của vị Linh mục lão thành, liền làm án tường trình về kinh. Nhưng vì không muốn đích thân xử án người vô tội, quan xin phép triều đình cho giải cha về tỉnh nguyên quán là Nam Định. Vua Minh Mệnh không chấp thuận và kết án tử hình ngay. Bản án ký ngày 20.06.1838, về tới Hải Dương ngày 30.06 với nội dung: “Đỗ Yến bản quốc là đạo trưởng Giatô, bị bắt mà không chịu bỏ đạo, thật là người ngu muội cố tình không theo đường phải, vậy trảm quyết ngay đem về Nam Định làm gì?”. Trong 3 tuần lễ bị giam, nhờ sự can thiệp của ông lang Hàn, cha Vinh Sơn Yến không phải mang gông xiềng, được phép nhận lương thực giáo hữu thăm nuôi. Ngày đêm cha chỉ chuyên cần nguyện kinh và trầm lặng trong suy niệm lâu giờ.
Ngày 30.06.1838, quan tuần phủ thi hành ngay bản án mới nhận được. Cha Vinh Sơn đã hiên ngang tiến ra pháp trường ở ngã tư, gần họ Bình Lao, cách thành Hải Dương một cây số vế phía Tây. Gương mặt hiền từ của vị Linh mục lão thành đáng kính với dáng điệu thanh cao khiến nhiều người xúc động. Tới nơi ngài quỳ gối cầu nguyện thật sốt sắng, rồi lý hình thi hành phận sự. Chỉ một nhát gươm vung lên đầu vị tử đạo rơi xuống đất.
Quan tặng một tấm vải để tẩm liệm và truyền khâu đầu vị tử đạo vào cổ, rồi cho phép tín hữu họ Bình Lao đưa về an táng. Tám tháng sau, tín hữu cải táng rước vào nhà thờ Thọ Ninh[3]. Khi cải táng người ta thấy thi hài của cha Vinh Sơn còn nguyên vẹn như mới ly trần. Ông Trưởng Dong một người ngoại giáo, được chứng kiến tận mắt đã nói: “Thật là người sống khôn thác thiêng, đã tám tháng mà không tiêu hao chút nào, không hôi tanh lại thoảng mùi thơm tho nữa.”
Ngày 27.5.1900, cha Vinh Sơn Đỗ Yến đã được Ðức Lêo XIII tôn phong lên bậc Chân Phước, và ngày 19.06.1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển Thánh.
[1] Thuộc Giáo phận Bắc Ninh ngày nay
[2] Thuộc Giáo phận Hải Phòng ngày nay
[3] Thuộc Giáo phận Bắc Ninh ngày nay
WGPBN