Ngày 5/6: Thánh Đa-minh Toại – Giáo hữu, tử đạo Việt Nam
Ông Đa-minh Toại sinh ở làng Đông Thành, xứ Kẻ Mèn tỉnh Thái Bình, làm nghề đánh cá. Ông là một giáo hữu đơn sơ chất phác đạo đức, chăm chỉ đọc kinh tối sớm và dù sống trong cảnh bách hại, ông và gia đình tìm mọi cách để có thể đi dự Thánh Lễ.

Cơn bách hại sắp kết thúc thì càng trở nên khốc liệt. Lệnh trên truyền tất cả các làng xã phải khai danh sách những người có đạo. Lý trưởng xã Đông Thành thi hành triệt để. Mấy ngày sau quan về đình làng gọi tên từng người ra bắt quá khóa, ai bước qua thập giá sẽ được tha, ai không tuân lệnh phải bắt giam hay phát lưu đến những nơi chứng khí độc nước.
Trong số những người không tuân lệnh có ông Đa-minh Toại và Đa-minh Huyên. Hai ông phải phát lưu đến làng Tang Gia, huyện Quỳnh Lôi, tỉnh Thái Bình, là một làng sùng đạo Phật, căm ghét người có đạo, ai phải phát lưu ở đó thì họ hành hạ, chế giễu, sỉ vả.
Chín tháng ở Tang Gia, không lúc nào được yên hàn, nghỉ ngơi, lý hình cốt làm khổ để các ông bỏ đạo. Hai ông không phàn nàn, lúc nào cũng hướng về Chúa xin ơn bền đỗ xưng đạo đến cùng. Ông Toại còn khuyên bảo các bạn hữu giữ vững Đức Tin. Thấy ai buồn phiền chán nản, ông yên ủi nâng đỡ họ rằng: “Ta hãy đón lấy những khổ cực để chết vì Chúa Ki-tô”.
Nhiều khi vợ con thân thuộc đến thăm, thấy tình cảnh thảm não của các ông, họ khóc lóc. Hai ông vui vẻ bảo vợ con: “Chúng tôi hân hoan được hy sinh vì Chúa… Hãy về trông coi nhà cửa con cái, đừng lo số phận của chúng tôi. Hãy cầu nguyện cho chúng tôi can đảm theo Chúa đến cùng”.
Mất bao công lao khó nhọc vất vả cũng không lay chuyển nổi ý chí sắt đá của hai vị tuyên xưng Đức Tin, quan Nguyễn Đình Tân tức giận kết án hai ông phải thiêu sinh.
Được tin hai ông vui mừng hát kinh Tạ ơn Chúa, dọn mình sốt sắng để lãnh nhận ơn trọng này.
Ngày xử đã đến, ngày 4-6-1862, ông Đa-minh Toại và Đa-minh Huyên và một số đông giáo hữu phải điệu ra pháp trường là một cánh đồng bao la. Những cọc đã được chôn sẵn. Lý hình trói các ông vào cọc, chất rơm lên trên. Sau hồi hiệu lệnh, lính thi nhau châm lửa, lửa bốc cháy ngùn ngụt cả một góc trời lẫn với tiếng kêu Giê-su, tiếng phó thác linh hồn vang dội cho đến khi lửa tắt.
Thi thể các ông táng ở ngang pháp trường. Hai năm sau, hài cốt ông Đa-minh Toại mới được cải táng đưa về quê nhà. Khi rửa sạch và đem phơi trên tấm lụa, bà chị dâu ông đến thăm nói: “Các đấng tử đạo khác thì có dấu lành, còn chú cháu không có dấu gì khác?” Bà vừa nói xong, một sự lạ xảy ra: ở các đầu xương có máu chảy, thấm xuống tấm lụa… Người nhà sợ hãi đến trình cha xứ, cha cho người đến đưa mảnh lụa vào nhà xứ.
Khi tra án lần thứ hai, tự nhiên mấy người làm chứng lần trước có vẻ sợ, họ ăn chay cầu nguyện xin Chúa tỏ dấu gì để Cha Hiền đang lo việc tra xét tin mà làm án. Hôm ấy, cháu ông Toại đang viết tờ khai dở dang, có việc bỏ ra ngoài, lúc vào thấy có ba giọt máu rỏ trên tờ khai, một giọt ở chữ ‘Thành’, một giọt ở chữ ‘Kính’, một giọt ở chữ ‘Tộc’. Không ai quyết đoán thế nào, gửi vào cha xứ để người xét, và mọi người tin đó là phép lạ.
Ngày 29-4-1951, Đức Thánh Cha Pi-ô XII phong chân phúc cho ông Đa-minh Toại và ngày 19-6-1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã tôn ông lên bậc hiển thánh.
Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn