Ngày 8/12: Đức Trinh nữ Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội,Lễ trọng

I. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Từ đầu thế kỷ VIII, ở phương Đông, người ta đã cử hành – vào ngày 9 tháng 12 – lễ Thánh Anna thụ thai Mẹ Thiên Chúa, nghĩa là việc Đức Maria tượng thai trong lòng bà thánh Anna. Sau đó lễ này được phổ biến sang miền Nam nước Ý, rồi sang Ai Len và Anh, với tên gọi là Lễ Đức Mẹ Đồng Trinh Maria được thụ thai. Mục tiêu ban đầu của lễ này là mừng cuộc thụ thai của thánh Anna, mà theo sách ngụy thư Tiền Tin Mừng theo thánh Giacôbê, cuộc thụ thai này xảy ra sau một thời gian dài bà Anna không có con, và đã được một thiên thần báo tin như một dấu hiệu của tình thương Chúa. Ở Napôli, vào thế kỷ IX, lễ này đươc ghi trên một lịch bằng đá cẩm thạch, mừng vào ngày 9 tháng 12, và đến năm 1050, trong Công đồng Verceil, Đức Giáo Hoàng Lêô IX khuyên nhủ các tín hữu mừng việc Đức Mẹ Được Thụ Thai, giống như phong tục của Giáo Hội Byzance.

Vào đầu thế kỷ XII, tu sĩ người Anh Eadmer, học trò của thánh Anselme Cantobéry, tuyên bố ông tin là Đức Mẹ được thụ thai (thụ động) vô nhiễm (tránh khỏi nguyên tội), và viết một khảo luận đầu tiên về đề tài này. Thánh Bênađô, ngược lại, vào dịp đầu tiên mừng lễ này ở Lyon (khoảng 1140), đã cảnh giác mọi người về điều mới mẻ này, và dạy rằng Đức Mẹ chỉ được thánh hóa sau khi được thụ thai, chứ không phải ngay khi còn trong lòng mẹ (Ep. 174). Dưới ảnh hưởng của ngài, các nhà thần học lớn của thế kỷ XII và XIII (Phêrô Lombard, Alexandre Halès, thánh Bônaventura, thánh Albert Cả, thánh Thomas Aquinô) cũng đi theo giáo huấn này; các nhà thần học này chưa tìm được cách nào để hoà hợp việc Đức Mẹ được miễn tội nguyên tổ với tính phổ quát của tội nguyên tổ và nhu cầu đón nhận ơn cứu chuộc đối với mọi người.

Người tìm ra giải pháp cho những vấn nạn này chính là các nhà thần học dòng Phanxicô – đặc biệt là Duns Scotus (1308). Họ tạo ra khái niệm tiền cứu chuộc. Việc Đức Mẹ được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ là hình thức hoàn hảo nhất của việc Cứu Chuộc; vì thế, theo các nhà thần học này, việc Đức Kitô cứu chuộc Mẹ của Người bằng cách này là thích hợp.

Công đồng Bâle năm 1439 ủng hộ phe chủ trương Đức Mẹ Đầu Thai Vô Nhiễm. Nhiều vị giáo hoàng cũng lên tiếng ủng hộ sự tin tưởng này và ngày 8 tháng 12 năm 1854, Đức Pi-ô IX đã tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội: “Đức Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai, do một đặc ân và ân sủng độc nhất vô nhị của Thiên Chúa toàn năng, nhờ những công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, đã được gìn giữ sạch mọi vết nhơ của tội nguyên tổ” (Sắc Chỉ Ineffabilis).

II. Thông điệp và tính thời sự

Các bản văn phụng vụ có từ thời Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố Bản kinh Phụng vụ. Những bản văn này giúp chúng ta nắm được tầm quan trọng của tín điều do Sắc chỉ Ineffabilis công bố.

Lời Nguyện của ngày lấy lại một công thức phụng vụ được soạn năm 1477, dưới thời Đức Giáo Hoàng Sixte IV, là một tổng hợp hầu như giống nguyên văn câu định nghĩa tín điều: “Thiên Chúa đã dọn sẵn một cung điện xứng đáng cho Con Chúa giáng trần khi làm cho Đức Trinh Nữ Maria khỏi mắc nguyên tội ngay từ trong lòng mẹ. Chúa cũng gìn giữ Đức Trinh Nữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, nhờ công nghiệp Con Chúa sẽ chịu chết sau này.”

Sự tiến triển lịch sử của chân lý đức tin này đã có đầy đủ ý nghĩa trong các bài giảng của các Giáo phụ phương Đông, gắn liền với lễ Sinh Nhật Đức Mẹ (ví dụ, bài giảng của thánh Jean Damascène ngày lễ Sinh Nhật Đức Mẹ). Việc Đức Maria được thụ thai bởi một bà mẹ son sẻ (xem Tiền Tin Mừng theo thánh Giacôbê) nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa, báo trước việc Đức Kitô được thụ thai bởi một bà mẹ đồng trinh nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Như thế lòng đạo đức bình dân đã đi từ việc sùng kính sự kiện thánh Anna thụ thai – nhấn mạnh về bà mẹ chứ không phải về Đức Maria – để chuyển sang sự kiện Đức Maria, “người đầu tiên được cứu độ”, được thụ thai trong lòng mẹ ngài.

Kinh Tiền tụng mới – trích thư Ep 5, 27 và lấy ý từ Công đồng Vaticanô II (MK và PV) – là một tổng hợp nội dung thần học của tín điều. Như thế có sự nhấn mạnh trước tiên đến chiều kích Kitô học của tín điều, bằng cách khai triển mối quan hệ giữa việc được khỏi tội nguyên tổ, đầy ân sủng, và làm mẹ Thiên Chúa, vì Đức Maria đã được kêu gọi để trở thành người mẹ xứng đáng với Con của mình. Kinh Tiền Tụng cũng nhấn mạnh một chiều kích giáo hội học của ngày lễ trọng này: “Nơi Người (Đức Maria), Chúa đã cho thấy trước hình ảnh Hội Thánh, vị hôn thê không nếp nhăn, không tì vết, đẹp rực rỡ.” Một chiều kích thứ ba – cứu chuộc học – cũng nổi bật, nói lên mối liên quan giữa sự cứu chuộc được thực hiện bởi “Con Chiên vô tì tích xoá tội chúng ta”, và sự trong trắng của Đức Maria. Ngay từ thế kỷ II, Meliton de Sardes đã có trực giác về điều này: “Chính Người, Con Chiên bị giết, chính Người là con chiên vô tì tích, đã sinh ra bởi Đức Maria.” (Bài giảng lễ Phục Sinh). Sau cùng, chiều kích cánh chung học cũng được nhấn mạnh qua việc nhắc tới ơn gọi của Đức Maria: “Được chọn giữa toàn thể nữ giới, Người chuyển cầu nêu gương thánh thiện cho toàn thể Dân Chúa.”

Lời Nguyện trên lễ vật nhấn mạnh “ơn quan phòng của Thiên Chúa đã gìn giữ Đức Maria khỏi mọi tội lỗi”. Đây là một lời nhắc nhở về ân sủng vô điều kiện của Thiên Chúa: “nhờ công nghiệp do cái chết của Chúa Kitô”, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ Người khỏi mọi vết nhơ tội lỗi (Lời Nguyện của ngày).

Lời Nguyện hiệp lễ cầu khẩn Chúa: xin Người “chữa lành nơi chúng ta mọi vết thương của tội nguyên tổ” mà Đức Mẹ đã được giữ gìn không mắc phải.

Theo Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, tội nguyên tổ là một chân lý nền tảng của đức tin: “Phải nhận biết Đức Kitô như là nguồn mạch của ân sủng để có thể nhận biết Ađam như là nguồn mạch của tội lỗi” (số 388). “Giáo lý về tội nguyên tổ là “phản diện” của Tin Mừng công bố rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ mọi người, rằng mọi người cần được cứu độ và ơn cứu độ được ban cho mọi người nhờ ân sủng của Đức Kitô. Mang tinh thần của Chúa Kitô, Hội Thánh biết rõ người ta không thể đụng đến mặc khải về tội nguyên tổ mà không đụng đến mầu nhiệm Chúa Kitô.” (số 339).

– “Đây là cuộc Tạo dựng mới – Hội Thánh hát trong Giờ Kinh Sách – nơi Người, hỡi Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm, ân sủng nguyên thuỷ nở hoa. Trái đất của chúng con không còn bị chúc dữ. . .” (Thánh Thi). Điệp ca của kinh Benedictus ca ngợi vai trò của Evà mới: “Ta sẽ đặt sự thù nghịch giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng dõi của Người; Người sẽ đạp dập đầu mi.”

Enzo Lodi