Tuần 16, ngày 103-109: Sa-lô-môn, con người khôn ngoan | 365 ngày Hiệp hành với Lời Chúa

Ngày 103 – Sa-lô-môn, con người khôn ngoan

1 Các Vua 3,1-15

Sa-lô-môn thành con rể của Pha-ra-ô vua Ai-cập, vì đã cưới công chúa vua Ai-cập, và đưa nàng về Thành của Đa-vít, cho đến khi hoàn thành việc xây cất cung điện của ông, cũng như Đền Thờ ĐỨC CHÚA và tường thành quanh Giê-ru-sa-lem. Chỉ có điều là dân chúng vẫn tế lễ trên các nơi cao, vì cho đến nay ông vẫn chưa xây được ngôi đền nào kính Danh ĐỨC CHÚA. Tuy Sa-lô-môn yêu mến ĐỨC CHÚA, bước theo các lời chỉ dạy của Đa-vít, thân phụ ông, nhưng ông vẫn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao.

Vua đi Ghíp-ôn để tế lễ vì chỗ ấy là nơi cao quan trọng nhất ; Sa-lô-môn dâng một ngàn lễ vật toàn thiêu trên bàn thờ ấy. Tại Ghíp-ôn, đang đêm, ĐỨC CHÚA hiện ra báo mộng cho vua Sa-lô-môn ; Thiên Chúa phán: “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho.” Vua Sa-lô-môn thưa: “Chính Ngài đã lấy lòng nhân hậu lớn lao mà xử với tôi tớ Chúa là Đa-vít thân phụ con, như người đã bước đi trước nhan Chúa cách trung thực, công chính, với tâm hồn ngay thẳng. Chúa đã duy trì lòng nhân hậu lớn lao ấy đối với người, khi ban cho người có một đứa con ngồi trên ngai của người hôm nay. Và bây giờ, lạy ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị Đa-vít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền trị nước. Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết, cũng không đếm nổi. Xin ban cho tôi tớ Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái ; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?” Chúa hài lòng vì vua Sa-lô-môn đã xin điều đó. Thiên Chúa phán với vua: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi, không có ai trong các vua được như ngươi. Và nếu ngươi bước theo các đường lối của Ta, là tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta, như Đa-vít thân phụ ngươi, thì Ta sẽ kéo dài ngày đời của ngươi.” Sa-lô-môn tỉnh dậy, thì ra đó là một giấc mộng. Ông trở về Giê-ru-sa-lem và đứng trước Hòm Bia Giao Ước của Chúa ; ông thượng tiến lễ toàn thiêu, dâng lễ kỳ an và thết tất cả các bề tôi của mình một bữa tiệc.

 

Ngày 104 – Vua Sa-lô-môn xử kiện

1 Các Vua 3,16-28

Bấy giờ có hai người gái điếm vào chầu vua. Khi đứng trước mặt vua, thì một người nói: “Ôi, thưa chúa thượng tôi, tôi và người đàn bà này cùng ở một nhà ; và tôi sinh một đứa con, trong lúc chị này cùng ở đó với tôi. Tôi sinh được ba ngày, thì người đàn bà này cũng sinh. Chúng tôi ở chung với nhau ; ngoài hai chúng tôi ra, không có ai khác trong nhà. Đêm nọ, đứa con của chị này chết, vì chị đè lên nó ; giữa đêm chị thức dậy, và trong khi nữ tỳ của ngài vẫn ngủ, thì chị bế đứa con của tôi đang nằm cạnh tôi, và đặt trong lòng mình, còn đứa con đã chết của chị, chị đặt vào lòng tôi. Đến sáng khi tôi thức dậy cho con bú, thì này đứa bé đã chết. Nhưng khi tôi nhìn kỹ nhờ ánh sáng ban ngày, thì ra nó không phải là đứa con tôi đã sinh ra.” Người đàn bà kia trả lời: “Không phải thế, vì con tôi còn sống, con chị mới là đứa chết.” Nhưng người này lại nói: “Không phải, con chị mới là đứa chết, đứa sống là con tôi.” Và họ cãi nhau trước mặt vua. Bấy giờ vua nói: “Chị này bảo: ‘Đứa sống này là con tôi, con chị mới là đứa chết.’ Chị kia đáp lại: ‘Không phải thế, con chị mới là đứa chết, nhưng con tôi còn sống.’” Rồi vua ra lệnh: “Đưa cho ta chiếc gươm.” Người ta đưa tới trước mặt vua một chiếc gươm. Và vua quyết định: “Phân đứa trẻ còn sống ra làm hai, và cho mỗi người một nửa!” Bấy giờ người mẹ của đứa trẻ còn sống, động lòng thương con mình, liền thưa với vua: “Ôi! thưa chúa thượng tôi, xin ngài cho chị ấy đứa trẻ còn sống ; còn giết chết nó, thì xin đừng!” Người kia nói: “Chẳng phải con tôi, cũng chẳng phải con chị, cứ chia ra!” Bấy giờ vua lên tiếng nói: “Trao đứa trẻ còn sống cho người nói trước, và đừng giết nó, chính nàng mới là mẹ nó.” Toàn thể Ít-ra-en nghe biết vụ án vua đã xử, đều kính sợ vua, vì thấy rằng Thiên Chúa đã phú bẩm cho vua một sự khôn ngoan lạ lùng để người xét xử.

Ngày 105 – Xây cất Đền Thờ

1 Các Vua 6,1-38

Năm thứ bốn trăm tám mươi từ khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, năm thứ tư triều đại vua Sa-lô-môn cai trị Ít-ra-en, tháng Diu tức là tháng thứ hai, vua xây Đền Thờ kính ĐỨC CHÚA. Đền vua Sa-lô-môn xây kính ĐỨC CHÚA dài ba mươi thước, rộng mười thước và cao mười lăm thước. Tiền đình ở trước gian Cung Thánh của Đền Thờ dài mười thước nằm theo chiều rộng của Đền Thờ, rộng năm thước nằm theo chiều dài của Đền Thờ. Vua làm Đền Thờ có cửa sổ với khung và chấn song v. Vua xây dựa vào tường Đền Thờ một cái chái bọc các tường chung quanh gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh, và làm các tầng chái chung quanh. Tầng x dưới rộng hai thước rưỡi, tầng giữa rộng ba thước, và tầng thứ ba rộng ba thước rưỡi, vì chung quanh Đền Thờ, phía ngoài, vua đã xây thụt vào để khỏi đóng đà vào tường Đền Thờ. Khi xây Đền Thờ, người ta dùng đá đẽo toàn khối ; đang khi xây, trong Đền Thờ không hề nghe thấy tiếng búa tiếng rìu, hay bất cứ dụng cụ nào bằng sắt. Cửa vào tầng giữa nằm bên hông phải Đền Thờ, và người ta dùng thang xoáy đi lên tầng giữa ; rồi từ tầng giữa lên tầng ba. Khi xây Đền Thờ xong, vua dùng gỗ bá hương chạm trổ mỹ thuật mà đóng trần Đền Thờ. Rồi vua xây hành lang chung quanh Đền Thờ, cao hai thước rưỡi, và được nối liền với Đền Thờ bằng những cái đà gỗ bá hương. Có lời ĐỨC CHÚA phán bảo vua Sa-lô-môn rằng: y “Vì Đền Thờ ngươi đang xây đây, nếu ngươi tiến bước theo các giới răn, thực hành các huấn lệnh của Ta và tuân giữ các mệnh lệnh Ta truyền, mà bước theo các điều ấy, thì Ta sẽ thực hiện cho ngươi các lời Ta đã phán với Đa-vít, thân phụ ngươi. Ta sẽ lưu ngự giữa con cái Ít-ra-en ; Ta sẽ không bỏ Ít-ra-en, dân Ta.” Vua Sa-lô-môn đã hoàn thành việc xây cất Đền Thờ.

Vua dùng ván bá hương ghép mặt trong của Đền Thờ, từ nền cho tới đà của trần nhà ; như thế, toàn bộ mặt trong của Đền Thờ được ghép gỗ ; nền nhà thì vua lát ván gỗ trắc. Vua dùng ván bá hương lát mười thước phần sau của Đền Thờ, từ nền cho tới trần nhà ; và dành phần đó làm Đơ-via, tức là Nơi Cực Thánh. Cung Thánh, tức là Hê-can, ở trước Đơ-via, được hai mươi thước. Gỗ bá hương ghép bên trong Cung Thánh được chạm trổ hình trái mướp đắng và nhành hoa ; toàn là gỗ bá hương, chứ không thấy đá. Vua lập một Nơi Cực Thánh ở giữa Đền Thờ, phía trong, để đặt Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA. Nơi Cực Thánh dài mười thước, rộng mười thước, và cao mười thước, và vua dát vàng ròng ; vua cũng làm bàn thờ bằng gỗ bá hương. Vua Sa-lô-môn dát vàng ròng phía trong Cung Thánh, trước Nơi Cực Thánh, vua cũng dát vàng. Tất cả Đền Thờ vua đều dát vàng, không trừ một chỗ nào ; bàn thờ Nơi Cực Thánh, vua cũng dát toàn vàng.

Trong Nơi Cực Thánh, vua làm hai Kê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, cao năm thước. Một cánh của một Kê-ru-bim dài hai thước rưỡi, cánh kia cũng hai thước rưỡi ; thành ra từ đầu cánh này tới đầu cánh kia là năm thước. Kê-ru-bim thứ hai cũng đo được năm thước ; hai Kê-ru-bim có một kích thước và hình thể như nhau. Chiều cao của một Kê-ru-bim là năm thước ; Kê-ru-bim thứ hai cũng thế. Vua đặt các Kê-ru-bim ở giữa nhà, phía bên trong ; cánh xoè ra: một cánh của Kê-ru-bim thứ nhất đụng tường bên này, và một cánh của Kê-ru-bim thứ hai đụng tường bên kia ; hai cánh khác giao nhau ở giữa nhà, cánh nọ chạm cánh kia. Vua cũng dát vàng các Kê-ru-bim. Trên khắp các tường chung quanh nhà, vua chạm trổ những hình Kê-ru-bim, hình cây chà là và nhành hoa, cả trong lẫn ngoài. Sàn nhà, vua cũng dát vàng, cả phía trong lẫn phía ngoài.

Ở lối vào Nơi Cực Thánh, vua làm cánh cửa bằng gỗ ô-liu quý, khung cửa có năm cạnh. Trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, vua chạm trổ những hình Kê-ru-bim, hình cây chà là và nhành hoa, rồi vua dát vàng ; vua trải mỏng vàng trên các Kê-ru-bim và các cây chà là. Cửa vào Cung Thánh, vua cũng làm như thế ; trụ khung cửa bằng gỗ ô-liu, nhưng có bốn cạnh, hai cánh cửa bằng gỗ trắc: một cánh có hai tấm xoay được, và cánh kia cũng có hai tấm xoay được. Vua chạm trổ hình Kê-ru-bim, hình cây chà là và nhành hoa, và dát vàng hoàn toàn khít với hình nổi.

Vua xây sân trong: ba hàng đá đục đẽo mỹ thuật, và một hàng thanh gỗ trắc.

Năm thứ tư, tháng Diu, người ta đặt nền móng Đền Thờ ĐỨC CHÚA ; năm thứ mười một, tháng Bun, tức là tháng thứ tám, công trình xây cất Đền Thờ, cả quy mô lẫn chi tiết, đều được hoàn thành. Vua đã xây cất Đền Thờ trong bảy năm.

 

Ngày 106 – Cuộc viếng thăm của nữ hoàng Sơ-va

1 Các Vua 10,1-13

Nữ hoàng Sơ-va nghe biết vua Sa-lô-môn nổi tiếng vì danh ĐỨC CHÚA, thì đến đặt câu đố để thử tài vua. Bà đến Giê-ru-sa-lem cùng với đoàn tuỳ tùng đông đảo, nhiều lạc đà chở đầy hương liệu, và một số lượng rất lớn vàng cùng đá quý. Bà vào hội kiến với vua Sa-lô-môn và nói với vua tất cả những gì bà suy nghĩ trong lòng. Vua Sa-lô-môn giải đáp tất cả những vấn đề bà đưa ra ; không có chuyện gì là bí ẩn mà vua không giải đáp được cho bà. Nữ hoàng Sơ-va thấy tất cả sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn và cung điện vua đã xây, những món ăn trên bàn của vua, dinh thự của quần thần, cung cách và trang phục của họ, các thứ rượu của vua, các lễ toàn thiêu vua tiến dâng tại Đền Thờ ĐỨC CHÚA, bà hết hồn, bà nói với vua: “Những điều tôi đã nghe nói ở nước tôi về ngài và sự khôn ngoan của ngài quả là sự thật. Tôi đã không tin những điều người ta nói, cho tới khi tôi đến và thấy tận mắt ; nhưng thật ra người ta cho tôi biết chưa tới một nửa. Ngài còn khôn ngoan và giàu có hơn tiếng đồn tôi đã nghe. Phúc thay thần dân của ngài! Phúc thay quần thần của ngài, những kẻ luôn luôn được túc trực trước mặt ngài và nghe biết sự khôn ngoan của ngài! Chúc tụng ĐỨC CHÚA Thiên Chúa của ngài, Đấng đã ưu ái đặt ngài lên ngai Ít-ra-en ; chính vì lòng yêu thương Ít-ra-en đến muôn đời, mà ĐỨC CHÚA đã đặt ngài làm vua, để ngài thi hành luật pháp và công lý.” Và bà tặng vua ba ngàn sáu trăm ký vàng, một số rất lớn hương liệu và đá quý. Chưa từng có một số lượng hương liệu nhiều như nữ hoàng Sơ-va đã tặng vua Sa-lô-môn. Cả đoàn tàu của vua Khi-ram, mang vàng từ Ô-phia về, cũng đưa rất nhiều gỗ đàn hương và đá quý từ Ô-phia về nữa. Vua dùng gỗ đàn hương làm các cột trụ Đền Thờ ĐỨC CHÚA, cung điện nhà vua, đàn lia đàn hạc cho các ca sĩ ; thứ gỗ đàn hương ấy không còn và cũng không thấy nữa cho tới ngày nay. Vua Sa-lô-môn tặng lại nữ hoàng Sơ-va tất cả những gì bà ngỏ ý thích, chưa kể những gì vua tặng bà xứng với danh vua Sa-lô-môn hào hiệp. Sau đó bà lui gót, cùng với đoàn tuỳ tùng trở về xứ sở.

Ngày 107 – Ly khai về chính trị

1 Các Vua 12,1-24

Rơ-kháp-am đi Si-khem, vì toàn thể Ít-ra-en tụ họp ở Si-khem để tôn ông lên làm vua. Lúc ấy Gia-róp-am con ông Nơ-vát nghe biết chuyện ấy, –ông còn đang ở bên Ai-cập vì ông đã trốn vua Sa-lô-môn sang đó– ông liền bỏ Ai-cập trở về. Người ta cho mời ông Gia-róp-am. Ông và toàn thể cộng đoàn Ít-ra-en tới. Họ thưa với Rơ-kháp-am rằng: “Phụ vương ngài đã bắt chúng tôi mang một cái ách quá nặng. Bây giờ nếu ngài giảm bớt khổ dịch và ách nặng nề phụ vương đã đặt trên chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phục dịch ngài.” Vua nói với họ: “Các ngươi cứ đi đi, ba ngày nữa trở lại đây gặp ta.” Dân chúng liền rút lui.

Vua Rơ-kháp-am bàn hỏi với các kỳ mục là những người đã từng hầu cận phụ vương Sa-lô-môn, khi vua này còn sống ; vua Rơ-kháp-am nói: “Các ngươi góp ý với ta thế nào, để ta còn trả lời cho dân này?” Họ thưa với vua: “Nếu hôm nay ngài làm đầy tớ cho dân này, nếu ngài phục vụ và để ý tới dân, dùng lời lẽ ôn tồn mà nói với dân, thì dân sẽ làm tôi ngài mãi mãi.” Nhưng vua không đếm xỉa gì đến ý kiến các kỳ mục đưa ra, lại đi bàn hỏi với đám người trẻ, là những bạn thiếu thời hiện đang hầu cận vua. Vua nói với họ: “Các ngươi góp ý với ta thế nào, để ta còn trả lời cho dân này, vì nó đã nói với ta rằng: Xin ngài giảm bớt cái ách nặng phụ vương đã đặt trên chúng tôi!” Đám người trẻ, những bạn thiếu thời của vua, thưa vua rằng: “Ngài sẽ trả lời cho dân đã từng nói với ngài: ‘Phụ vương ngài đã đặt ách nặng trên chúng tôi, nhưng xin ngài giảm bớt cho chúng tôi’, xin ngài nói với chúng thế này: ‘Ngón tay nhỏ của ta còn lớn hơn cả lưng của phụ vương ta. Vậy phụ vương ta đã đặt ách nặng trên các ngươi, còn ta, ta chất cho nặng hơn nữa ; phụ vương ta trừng phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.’”

Ngày thứ ba, Gia-róp-am cùng toàn dân đến yết kiến vua Rơ-kháp-am như vua đã hẹn rằng: “Ba ngày nữa trở lại gặp ta.” Vua trả lời cứng cỏi với dân ; vua không đếm xỉa gì đến ý kiến các kỳ mục đã đưa ra, nhưng nói với họ theo ý kiến đám người trẻ rằng: “Phụ vương ta đã đặt ách nặng trên các ngươi, còn ta, ta chất nặng hơn nữa trên các ngươi ; phụ vương ta trừng phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.” Thế là vua không chịu nghe dân: ĐỨC CHÚA đã để như vậy cho lời Người được ứng nghiệm, lời mà ĐỨC CHÚA đã dùng ông A-khi-gia người Si-lô mà phán với ông Gia-róp-am con ông Nơ-vát. Khi toàn thể Ít-ra-en thấy vua không thèm nghe họ, thì dân đáp lại vua rằng:

“Chúng tôi có liên hệ chi với Đa-vít? Chẳng có phần gì với con của Gie-sê! Ít-ra-en ơi, ai về lều nấy! Này Đa-vít hãy liệu lấy nhà của ngươi!”

Rồi Ít-ra-en rút về lều.Còn con cái Ít-ra-en cư ngụ tại các thành của Giu-đa, thì vua Rơ-kháp-am vẫn làm vua cai trị họ. Vua Rơ-kháp-am cử ông A-đô-ram phụ trách việc dân công, nhưng toàn thể Ít-ra-en ném đá ông và ông đã chết ; còn vua Rơ-kháp-am thì vội vã lên xe trốn về Giê-ru-sa-lem. Thế là Ít-ra-en ly khai với nhà Đa-vít cho tới ngày nay.

Khi toàn thể Ít-ra-en nghe tin ông Gia-róp-am đã về nước, thì sai người mời ông tới đại hội và phong ông làm vua cai trị toàn thể Ít-ra-en ; chỉ còn một mình chi tộc Giu-đa là theo nhà Đa-vít.

Về tới Giê-ru-sa-lem, vua Rơ-kháp-am tập họp toàn thể nhà Giu-đa và chi tộc Ben-gia-min, được một trăm tám mươi ngàn quân tinh nhuệ để giao chiến với nhà Ít-ra-en và thu hồi vương quốc về cho Rơ-kháp-am con vua Sa-lô-môn. Nhưng có lời Thiên Chúa phán với ông Sơ-ma-gia, người của Thiên Chúa rằng: “Hãy nói với Rơ-kháp-am con của Sa-lô-môn vua Giu-đa, với toàn thể nhà Giu-đa và Ben-gia-min cùng phần còn lại của dân rằng: ‘ĐỨC CHÚA phán thế này: Các ngươi không được lên giao chiến với con cái Ít-ra-en là anh em các ngươi ; ai nấy cứ về nhà mình, vì mọi chuyện là do Ta.’” Họ nghe lời ĐỨC CHÚA và quay về như ĐỨC CHÚA đã phán.

 

Ngày 108 – Phép lạ bột và dầu ở Xa-rép-ta

1 Các Vua 17,1-24

Ông Ê-li-a, người Tít-be, trong số dân cư ngụ tại Ga-la-át, nói với vua A-kháp rằng: “Có ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa hằng sống của Ít-ra-en, Đấng tôi phục vụ: trong những năm sắp tới, sẽ chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không ra lệnh.”

Có lời ĐỨC CHÚA phán với ông như sau: “Ngươi hãy bỏ đây đi về phía đông, và ẩn mình trong thung lũng Cơ-rít, phía đông sông Gio-đan. Ngươi sẽ uống nước suối. Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi ở đấy.” Ông ra đi và làm như ĐỨC CHÚA truyền: là đến ở thung lũng Cơ-rít, phía đông sông Gio-đan. Buổi sáng, quạ mang bánh và thịt cho ông ; rồi buổi chiều, cũng mang bánh và thịt cho ông. Ông uống nước suối.

Nhưng sau một thời gian, suối cạn khô, vì trong xứ không có mưa. Bấy giờ có lời ĐỨC CHÚA phán bảo ông: “Ngươi hãy đứng dậy đi Xa-rép-ta, thuộc Xi-đôn, và ở lại đấy. Này Ta truyền cho một bà goá ở đó nuôi ngươi.” Ông liền đứng dậy đi Xa-rép-ta. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống.” Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: “Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” Bà trả lời: “Có ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi v. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết.” Ông Ê-li-a nói với bà: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. Vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này:

“Hũ bột sẽ không vơi

vò dầu sẽ chẳng cạn

cho đến ngày ĐỨC CHÚA

đổ mưa xuống trên mặt đất.”

Bà ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói ; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà x có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời ĐỨC CHÚA đã dùng ông Ê-li-a mà phán.

Sau các sự việc đó, đứa con trai của bà ngã bệnh. Bệnh tình trầm trọng đến nỗi nó tắt thở y. Bà nói với ông Ê-li-a: “Hỡi người của Thiên Chúa, việc gì đến ông mà ông tới nhà tôi để nhắc lại tội tôi, và làm cho con tôi phải chết?” Ông Ê-li-a trả lời: “Bà đưa cháu cho tôi.” Ông bồng lấy đứa trẻ bà đang ẵm trong tay, đem lên phòng trên chỗ ông ở, và đặt nó nằm lên giường. Rồi ông kêu cầu ĐỨC CHÚA rằng: “Lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết sao?” Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu cầu ĐỨC CHÚA rằng: “Lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó!” ĐỨC CHÚA nghe tiếng ông Ê-li-a kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống. Ông Ê-li-a liền bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó, và nói: “Bà xem, con bà đang sống đây!” Bà nói với ông Ê-li-a: “Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời ĐỨC CHÚA do miệng ông nói ra là đúng.”

 

Ngày 109 – Hy lễ trên núi Các-men

1 Các Vua 18,16-46

Ông Ô-vát-gia-hu đi gặp vua A-kháp và báo cho vua biết sự việc. Vua A-kháp đi đón ông Ê-li-a. Khi nhận ra ông Ê-li-a, vua A-kháp nói với ông rằng: “Tên mang hoạ cho Ít-ra-en, nhà ngươi đấy phải không?” Ông đáp: “Tôi không mang hoạ cho Ít-ra-en, nhưng chính là ngài và nhà thân phụ ngài, vì các người đã bỏ không giữ mệnh lệnh ĐỨC CHÚA truyền, còn ngài thì đã đi theo các thần Ba-an. Bây giờ, ngài hãy cho triệu tập toàn dân Ít-ra-en lại bên tôi ở núi Các-men, cùng với bốn trăm năm mươi ngôn sứ của thần Ba-an và bốn trăm ngôn sứ của thần A-sê-ra, những người được hưởng lộc của bà I-de-ven.”

Vua A-kháp sai người đi mời toàn thể con cái Ít-ra-en và triệu tập các ngôn sứ trên núi Các-men. Bấy giờ, ông Ê-li-a đến bên dân và nói: “Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa, hãy theo Người ; còn nếu là Ba-an thì cứ theo nó!” Nhưng dân chúng không đáp lại lời nào. Ông Ê-li-a lại nói với dân: “Chỉ sót lại mình tôi v là ngôn sứ của ĐỨC CHÚA, còn ngôn sứ của Ba-an có những bốn trăm năm mươi người. Hãy cho chúng tôi hai con bò mộng ; họ hãy chọn lấy một con, chặt ra và đặt trên củi, nhưng đừng châm lửa ; tôi cũng làm thịt con bò kia, rồi đặt trên củi, nhưng sẽ không châm lửa. Đoạn các ngươi hãy kêu cầu danh thần của các ngươi ; còn tôi, tôi kêu cầu danh ĐỨC CHÚA x. Vị thần nào đáp lại bằng lửa thì vị đó chính là Thiên Chúa. Toàn dân trả lời và nói: “Đề nghị hay đó!” Bấy giờ, ông Ê-li-a nói với các ngôn sứ Ba-an: “Các người chọn lấy một con bò và làm trước đi, vì các người đông hơn. Rồi hãy kêu cầu danh thần của các người nhưng đừng châm lửa.” Vậy, họ lấy con bò người ta đưa cho họ, làm thịt, rồi kêu cầu danh thần Ba-an từ sáng tới trưa: “Lạy thần Ba-an, xin đáp lời chúng tôi!” Nhưng không một tiếng nói, không một ai trả lời, và họ nhảy khập khiễng bên cạnh bàn thờ họ đã dựng y. Đến trưa, ông Ê-li-a chế nhạo họ rằng: “Kêu lớn tiếng lên, vì người là một vị thần mà! Người đang mải suy nghĩ, hay là đi vắng hoặc trẩy đường xa ; có khi người đang ngủ, thì sẽ thức dậy thôi!” Họ càng kêu lớn tiếng hơn và theo thói tục của họ, họ dùng gươm, giáo rạch mình đến chảy máu. Quá trưa rồi mà họ vẫn tiếp tục nói liên miên cho tới giờ dâng lễ ; nhưng vẫn không một tiếng nói, không ai trả lời, không người để ý.

Bấy giờ ông Ê-li-a nói với toàn dân: “Các người hãy lại đây.” Toàn dân tiến lại gần ông. Ông dọn lại bàn thờ ĐỨC CHÚA đã bị phá huỷ. Ông Ê-li-a lấy mười hai phiến đá, theo số các chi tộc con cháu ông Gia-cóp, người đã được ĐỨC CHÚA phán bảo rằng: “Tên ngươi sẽ là Ít-ra-en.” Ông dùng các phiến đá ấy xây lại một bàn thờ kính ĐỨC CHÚA. Ông đào một đường mương chung quanh bàn thờ rộng cỡ hai thúng hạt giống. Ông xếp củi lên, rồi làm thịt con bò mộng và đặt trên đống củi. Ông nói: “Hãy đổ nước đầy bốn lu và tưới lên lễ vật và củi.” Họ làm như vậy. Ông nói: “Lần thứ hai nữa”, họ làm lần thứ hai. Ông lại nói: “Lần thứ ba!” và họ làm lần thứ ba. Nước chảy tràn quanh bàn thờ, khiến đường mương cũng đầy nước. Đến giờ dâng lễ, ngôn sứ Ê-li-a tiến ra và nói: “Lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en, Ngài là Thiên Chúa và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này. Xin đáp lời con, lạy ĐỨC CHÚA, xin đáp lời con, để dân này nhận biết Ngài là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ.” Bấy giờ lửa của ĐỨC CHÚA ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn luôn. Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: “ĐỨC CHÚA quả là Thiên Chúa! ĐỨC CHÚA quả là Thiên Chúa!” Ông Ê-li-a nói với họ: “Bắt lấy các ngôn sứ Ba-an, đừng để tên nào thoát.” Họ bắt lấy chúng và ông Ê-li-a đem giết chúng tại suối Ki-sôn.

Ông Ê-li-a nói với vua A-kháp: “Xin mời vua lên mà ăn uống, bởi vì có tiếng mưa rào!” Vua A-kháp liền lên ăn uống ; còn ông Ê-li-a thì lên đỉnh Các-men, ông cúi xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối. Đoạn ông bảo đứa tiểu đồng của ông: “Con đi lên và nhìn về phía biển.” Nó đi lên, nhìn và nói: “Không có gì cả!” Ông bảo: “Hãy trở lại bảy lần.” Lần thứ bảy, nó nói: “Kìa có một đám mây nhỏ bằng bàn tay người, đang từ biển bốc lên.” Ông nói: “Con hãy lên thưa với vua A-kháp: xin vua thắng xe và xuống kẻo bị kẹt mưa.” Lập tức trời kéo mây đen nghịt và nổi gió, rồi trút mưa lớn. Vua A-kháp cỡi xe đi Gít-rơ-en. Tay ĐỨC CHÚA đặt trên ông Ê-li-a ; ông thắt lưng và chạy trước vua A-kháp cho tới lúc vào Gít-rơ-en.