Tuần 10, ngày 61-67: Đại hội Si-khem | 365 ngày Hiệp hành với Lời Chúa
Ngày 61 – Chiếm Giê-ri-khô
Giô suê 5,13-6,27
Vậy, khi ở gần Giê-ri-khô, ông Giô-suê ngước mắt nhìn, thì này có người đứng đối diện với ông, tay cầm gươm trần. Ông Giô-suê đến gần người ấy và nói: “Ông về phe chúng tôi hay về phe địch?” Người ấy nói: “Không, ta là tướng chỉ huy đạo binh của ĐỨC CHÚA, bây giờ ta đến…” Ông Giô-suê sấp mặt xuống đất, sụp lạy và nói: “Ngài muốn dạy tôi tớ ngài điều gì?” Vị tướng chỉ huy đạo binh của ĐỨC CHÚA nói với ông Giô-suê: “Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh!” Và ông Giô-suê đã làm như vậy.
Giê-ri-khô đóng kín cổng thành, phòng thủ chống lại con cái Ít-ra-en: nội bất xuất, ngoại bất nhập. ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Xem đây! Ta nộp vào tay ngươi thành Giê-ri-khô, vua và các dũng sĩ của thành ấy. Các ngươi, tất cả những người tham chiến, các ngươi sẽ đi vòng quanh thành, đi chung quanh thành một lần ; (các) ngươi sẽ làm như vậy sáu ngày. Bảy tư tế sẽ cầm bảy cái tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia. Ngày thứ bảy, các ngươi sẽ đi vòng quanh thành bảy lần, và các tư tế sẽ thổi tù và. Khi tù và bằng sừng cừu rú lên, khi các ngươi nghe tiếng tù và, thì toàn dân lớn tiếng hò reo xung trận. Bấy giờ tường thành sẽ sụp đổ tại chỗ ; dân chúng ai nấy cứ thẳng trước mặt mình mà tiến lên.”
Ông Giô-suê, con ông Nun, triệu tập các tư tế và nói với họ: “Các ông hãy khiêng Hòm Bia Giao Ước, và bảy tư tế phải cầm bảy tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia của ĐỨC CHÚA.” Ông nói với dân: “Hãy tiến tới và đi vòng quanh thành ; những người được vũ trang hãy qua phía trước Hòm Bia của ĐỨC CHÚA.” Điều đó đã xảy ra như ông Giô-suê đã nói với dân. Bảy tư tế cầm bảy tù và bằng sừng cừu qua phía trước nhan ĐỨC CHÚA, vừa đi vừa thổi ; còn Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA thì đi sau họ. Quân tiên phong đi trước các tư tế đang thổi tù và. Quân hậu vệ đi theo sau Hòm Bia. Ai nấy bước đi theo tiếng tù và.
Trước đó ông Giô-suê đã ra lệnh này cho dân: “Anh em đừng hò reo xung trận, đừng để ai nghe thấy tiếng anh em, đừng hé môi nói ra lời nào, cho đến ngày tôi bảo anh em: Hãy hò reo xung trận! Bấy giờ, anh em mới hò reo xung trận.”
Hòm Bia ĐỨC CHÚA đi vòng quanh thành, đi một vòng chung quanh, rồi ai nấy trở về trại và qua đêm tại đó. Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm, và các tư tế khiêng Hòm Bia ĐỨC CHÚA. Bảy tư tế cầm bảy tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia ĐỨC CHÚA, vừa đi vừa thổi ; quân tiên phong đi trước họ, và quân hậu vệ theo sau Hòm Bia ĐỨC CHÚA ; ai nấy bước đi theo tiếng tù và.
Ngày thứ hai, họ đi vòng quanh thành một lần, rồi trở về trại. Họ làm như vậy sáu ngày. Ngày thứ bảy, họ dậy sớm khi hừng đông ló rạng, và đi vòng quanh thành bảy lần cùng theo một cách thức. Chỉ có ngày đó họ mới đi vòng quanh thành bảy lần. Đến lần thứ bảy, khi các tư tế thổi tù và, ông Giô-suê nói với dân: “Hãy hò reo xung trận, vì ĐỨC CHÚA đã nộp thành cho anh em.”
“Thành và mọi sự trong thành sẽ bị án tru hiến để kính ĐỨC CHÚA, chỉ có cô kỹ nữ Ra-kháp và mọi người ở với cô trong nhà là sẽ được sống, vì cô đã giấu các sứ giả chúng ta sai đi. Tuy nhiên, anh em phải đề phòng án tru hiến, kẻo anh em bị án tru hiến vì lấy đồ vật nào trong số những gì bị án biệt hiến. Bằng không, anh em sẽ làm cho trại Ít-ra-en phải bị án tru hiến, và như thế anh em gây tai hoạ cho trại. Tất cả vàng bạc, mọi đồ đồng, đồ sắt sẽ được thánh hiến cho ĐỨC CHÚA, và được sung vào kho tàng của ĐỨC CHÚA.”
Bấy giờ, dân hò reo xung trận, và người ta rúc tù và. Vừa nghe tiếng tù và, dân lớn tiếng hò reo xung trận, và tường thành sụp đổ tại chỗ. Dân chúng ai nấy cứ thẳng trước mặt mình mà tiến lên đánh thành, và đã chiếm được. Họ dùng lưỡi gươm mà thi hành án tru hiến mọi sự trong thành, từ đàn ông cho đến đàn bà, từ người trẻ cho đến người già, đến cả bò lừa và chiên cừu.
Ông Giô-suê nói với hai người đã đi do thám trong xứ: “Hãy vào nhà người kỹ nữ, và đem người đàn bà ấy cũng như mọi người thân thuộc của cô ra khỏi đó, theo như anh em đã thề hứa với cô.” Vậy các người thanh niên do thám vào nhà cô Ra-kháp, và đem cô ra khỏi đó cùng với cha mẹ, anh em cô và mọi người thân thuộc của cô ; họ đem tất cả thị tộc của cô ra khỏi đó, và cho họ ở bên ngoài trại Ít-ra-en.
Rồi họ phóng hoả đốt thành cũng như tất cả những gì trong đó ; ngoại trừ vàng bạc và những đồ đồng, đồ sắt, thì người ta nộp vào kho tàng nhà ĐỨC CHÚA. Nhưng cô kỹ nữ Ra-kháp cùng với gia đình cha cô và mọi người thân thuộc của cô, thì ông Giô-suê để cho sống. Cô ở giữa dân Ít-ra-en cho đến ngày nay, vì cô đã giấu sứ giả ông Giô-suê sai đi do thám Giê-ri-khô.
Thuở ấy, ông Giô-suê bắt phải thề rằng:
“Trước nhan ĐỨC CHÚA, khốn cho kẻ đứng lên
tái thiết thành Giê-ri-khô này!
Kẻ nào đào móng dựng nền,
thì con đầu lòng của nó phải chết ;
kẻ nào dựng cổng xây tường,
thì con út của nó phải mạng vong!”
ĐỨC CHÚA ở với ông Giô-suê, và danh tiếng đồn ra khắp xứ.
Ngày 62 – Tội không thi hành án biệt hiến
Giô suê 7,1-26
Nhưng con cái Ít-ra-en đã can tội không thi hành án biệt hiến: ông A-khan y, con ông Các-mi, cháu ông Dáp-đi, chắt ông De-rác, thuộc chi tộc Giu-đa, đã lấy đồ vật trong số những thứ bị án biệt hiến. Nên ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với con cái Ít-ra-en.
Từ Giê-ri-khô, ông Giô-suê sai người đến thành Ai ở gần Bết A-ven, về phía đông Bết Ên. Ông nói với họ: “Hãy lên do thám xứ ấy!” Họ lên do thám thành Ai. Họ trở về với ông Giô-suê và nói: “Đừng đưa cả dân lên! Chỉ cần khoảng hai hoặc ba ngàn người lên mà đánh thành Ai. Đừng làm khổ toàn dân trong vụ này, vì bọn kia không đông mấy!”
Vậy có chừng ba ngàn người trong dân đã lên đó, nhưng họ đã chạy trốn trước mặt người thành Ai. Người thành Ai đã giết khoảng ba mươi sáu người của họ. Người thành Ai đuổi theo họ từ đàng trước cổng thành đến Sơ-va-rim, và đánh bại họ ở chỗ dốc. Tâm thần của dân sợ hãi như muốn chảy tan ra như nước.
Ông Giô-suê xé áo mình ra, và cùng với các kỳ mục Ít-ra-en sấp mặt xuống đất trước Hòm Bia ĐỨC CHÚA, cho đến chiều. Họ rắc bụi lên đầu. Ông Giô-suê nói: “Ôi! Lạy Chúa là ĐỨC CHÚA, sao Ngài lại đem dân này qua sông Gio-đan mà nộp chúng con vào tay người E-mô-ri để huỷ diệt chúng con? Giá chúng con được định cư bên kia sông Gio-đan, thì có hơn không? Xin đoái thương, lạy Chúa, con biết nói gì đây, sau khi Ít-ra-en phải quay lưng chạy trốn các địch thù? Người Ca-na-an và mọi dân cư trong xứ sẽ nghe biết tin này. Họ sẽ quay lại chống chúng con và xoá tên chúng con khỏi mặt đất. Khi đó, Ngài sẽ làm gì để chứng tỏ danh Ngài vĩ đại?”
ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Đứng dậy đi! Sao ngươi cứ sấp mặt xuống đất như vậy? Ít-ra-en đã phạm tội, hơn nữa, chúng đã vi phạm giao ước mà Ta đã truyền cho chúng phải giữ ; chúng đã dám lấy cả đồ vật bị án biệt hiến, chúng đã dám lấy trộm, giấu đi và bỏ vào đồ đoàn của chúng! Vì thế, con cái Ít-ra-en sẽ không thể đương đầu với địch thù của chúng. Chúng sẽ quay lưng chạy trốn các địch thù, vì chúng đã trở nên những kẻ mang án tru hiến. Ta sẽ không ở với các ngươi nữa, nếu các ngươi không loại khỏi các ngươi những đồ vật bị án biệt hiến. Đứng dậy đi! Hãy làm cho dân được nên thánh. Ngươi sẽ nói: Anh em hãy lo cho mình được nên thánh để chuẩn bị cho ngày mai, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Hỡi Ít-ra-en, giữa các ngươi có một đồ vật bị án biệt hiến. (Các) ngươi sẽ không thể đương đầu với địch thù của (các) ngươi, bao lâu các ngươi không cất khỏi các ngươi đồ vật ấy. Sáng mai, các ngươi sẽ tiến đến theo từng chi tộc. Chi tộc nào ĐỨC CHÚA đã dùng thăm mà chỉ định, sẽ tiến đến theo từng thị tộc. Thị tộc nào ĐỨC CHÚA đã dùng thăm mà chỉ định, sẽ tiến đến theo từng gia đình. Gia đình nào ĐỨC CHÚA đã dùng thăm mà chỉ định, sẽ tiến đến từng người một. Kẻ nào bị chỉ định bởi việc bắt thăm vì có liên quan đến án biệt hiến, thì sẽ bị thiêu cùng với tất cả đồ vật của nó ; vì nó đã vi phạm giao ước của ĐỨC CHÚA, và vì nó đã làm một điều ô nhục trong Ít-ra-en.”
Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm và cho dân Ít-ra-en tiến đến theo chi tộc: chi tộc Giu-đa bắt trúng thăm. Ông cho các thị tộc Giu-đa tiến đến, và thị tộc De-rác bắt trúng thăm ; ông cho thị tộc De-rác tiến đến theo từng gia đình ; và gia đình Dáp-đi bắt trúng thăm. Ông cho gia đình Dáp-đi tiến đến từng người một, và A-khan, con ông Các-mi, cháu ông Dáp-đi, chắt ông De-rác, thuộc chi tộc Giu-đa, bắt trúng thăm.
Ông Giô-suê bảo A-khan: “Này ngươi, hãy tôn vinh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, và hãy suy tôn Người! Hãy thú thật với ta những gì ngươi đã làm, đừng giấu giếm gì cả.” A-khan trả lời ông Giô-suê: “Quả thật, con đã đắc tội với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đây là điều con đã làm: Trong số chiến lợi phẩm, con trông thấy một chiếc áo khoác đẹp miền Sin-a, hai ký bạc và một thỏi vàng cân nặng hơn nửa ký, vì lòng tham, con đã lấy ; các vật ấy được chôn dưới đất, ở giữa lều của con, và bạc thì ở bên dưới.”
Ông Giô-suê sai người chạy tới lều A-khan ; quả thật chiếc áo khoác được chôn trong lều, còn bạc thì ở dưới. Họ lấy tất cả ra khỏi lều, mang về cho ông Giô-suê và toàn thể con cái Ít-ra-en, rồi đổ ra trước nhan ĐỨC CHÚA.
Khi ấy, ông Giô-suê đem A-khan, con ông De-rác đi, cùng với bạc, áo khoác, nén vàng, cũng như con trai, con gái, bò lừa, chiên dê, lều trại và tất cả những gì của nó. Toàn thể Ít-ra-en cùng đi với nó. Người ta đem chúng lên cánh đồng A-kho.
Ông Giô-suê bảo: “Sao ngươi lại gây hoạ cho chúng ta? Xin ĐỨC CHÚA giáng hoạ cho ngươi hôm nay!” Toàn thể Ít-ra-en ném đá A-khan. Họ ném đá và thiêu những gì còn lại.
Rồi người ta chất một đống đá lớn trên A-khan. Đống đá ấy vẫn còn cho đến ngày nay. Bấy giờ, ĐỨC CHÚA nguôi cơn thịnh nộ. Vì thế, người ta gọi nơi này là “cánh đồng A-kho ” cho đến ngày nay.
Ngày 63 – Ông Giô-suê đến cứu viện Ghíp-ôn
Giô suê 10,1-15
A-đô-ni Xe-đéc, vua Giê-ru-sa-lem, nghe tin ông Giô-suê đã chiếm thành Ai, đã tru hiến thành này, đã đối xử với thành Ai và vua thành này như với Giê-ri-khô và vua thành ấy. Vua cũng nghe tin dân thành Ghíp-ôn đã cầu hoà với Ít-ra-en và đang sống giữa Ít-ra-en. Khi đó người ta hết sức sợ hãi, bởi vì Ghíp-ôn là một thành lớn như một kinh thành. Quả thế, thành đó lớn hơn thành Ai, và mọi người trong thành đều là những tay anh hùng. A-đô-ni Xe-đéc, vua Giê-ru-sa-lem, sai người đến nói với Hô-ham, vua Khép-rôn, với Pia-am, vua Giác-mút, với Gia-phia, vua La-khít, và với Đơ-via, vua Éc-lon: “Xin quý vị lên với tôi và cứu viện cho tôi, để chúng ta cùng đánh Ghíp-ôn, vì Ghíp-ôn đã cầu hoà với Giô-suê và con cái Ít-ra-en.” Năm vua E-mô-ri là vua Giê-ru-sa-lem, vua Khép-rôn, vua Giác-mút, vua La-khít, vua Éc-lon, đem quân liên minh với nhau và cùng đi lên. Họ bao vây Ghíp-ôn và tấn công thành ấy.
Dân thành Ghíp-ôn đến trại Ghin-gan nói với ông Giô-suê: “Xin ngài đừng từ chối tiếp tay cho các tôi tớ ngài. Xin ngài sớm lên với chúng tôi, giải thoát chúng tôi, cứu viện chúng tôi, vì tất cả các vua E-mô-ri ở miền núi đều hợp nhau chống lại chúng tôi.” Ông Giô-suê rời Ghin-gan mà đi lên, cùng với tất cả chiến sĩ và dũng sĩ. ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Đừng sợ chúng, vì Ta đã nộp chúng vào tay ngươi, không ai trong bọn chúng sẽ đứng vững trước mặt ngươi.” Sau khi từ Ghin-gan đi lên suốt cả một đêm, ông Giô-suê bất thình lình đến nơi chúng đóng quân.
ĐỨC CHÚA làm cho chúng tán loạn trước mặt Ít-ra-en. Và Ít-ra-en đã làm cho chúng đại bại ở Ghíp-ôn. Họ đuổi theo chúng lên phía đèo Bết Khô-rôn, và đánh giết chúng mãi cho đến A-dê-ca, cho đến Mác-kê-đa. Khi chúng chạy trốn trước mặt Ít-ra-en đến chân đèo Bết Khô-rôn, thì từ trời, ĐỨC CHÚA cho rơi những hòn đá lớn xuống trên chúng mãi cho đến A-dê-ca, khiến chúng phải chết. Chúng chết vì cơn mưa đá nhiều hơn là vì gươm con cái Ít-ra-en giết. Bấy giờ, trong ngày ĐỨC CHÚA nộp người E-mô-ri cho con cái Ít-ra-en, ông Giô-suê thưa chuyện với ĐỨC CHÚA. Trước mặt con cái Ít-ra-en, ông nói:
“Hỡimặt trời, hãy dừng lại trên thành Ghíp-ôn ;
hỡi mặt trăng, hãy dừng lại trên thung lũng Ai-gia-lôn!”
Mặt trời liền dừng lại, mặt trăng lập tức đứng lại, cho đến khi dân đã trị tội các địch thù.
Việc đó đã chẳng được ghi chép trong sách Người Công Chính sao? Mặt trời đứng yên ở giữa trời, không vội lặn, gần một ngày tròn.Trước đó và từ đó về sau, không có hôm nào như hôm ấy, ĐỨC CHÚA nghe lời một người phàm, vì ĐỨC CHÚA chiến đấu cho Ít-ra-en. Ông Giô-suê và toàn dân Ít-ra-en trở về trại ở Ghin-gan.
Ngày 64 – Diễn từ cuối cùng của ông Giô-suê
Giô suê 23,1-16
Lâu ngày sau khi ĐỨC CHÚA ban cho Ít-ra-en được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, và khi ông Giô-suê đã già, tuổi đã cao, thì ông triệu tập toàn thể Ít-ra-en, các kỳ mục, những người đứng đầu, các thủ lãnh và ký lục, rồi nói: “Tôi đã già nua tuổi tác. Phần anh em, anh em đã chứng kiến mọi sự mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, giáng xuống trên mọi dân đó vì anh em, bởi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã chiến đấu cho anh em. Anh em xem! Tôi đã cho các chi tộc của anh em bắt thăm được đất của các dân còn sót lại đó làm gia nghiệp, cũng như của mọi dân tôi đã quét sạch, từ sông Gio-đan cho đến Biển Lớn, phía mặt trời lặn. ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, sẽ đẩy lui chúng cho khuất mắt anh em, sẽ trục xuất chúng đi cho khuất mắt anh em. Anh em sẽ chiếm lấy đất đai của chúng, theo như lời ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em đã phán.
Vậy anh em phải thật cương quyết tuân giữ và thực hành tất cả những gì ghi trong Sách Luật Mô-sê, không đi trệch bên phải bên trái, không lui tới với những dân ấy, những dân còn sót lại giữa anh em. Anh em đừng kêu tên các thần của chúng, đừng lấy tên các thần ấy mà thề. Đừng phụng thờ chúng, đừng sụp xuống lạy chúng. Trái lại, anh em sẽ chỉ gắn bó với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã làm cho đến ngày nay. ĐỨC CHÚA đã trục xuất những dân lớn mạnh cho khuất mắt anh em, và không ai đã đứng vững trước mặt anh em cho đến ngày nay. Chỉ một người trong anh em mà đuổi được cả ngàn người, vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, chiến đấu cho anh em, theo lời Người đã phán với anh em. Anh em phải hết sức chú tâm yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em.
Nhưng nếu anh em phản bội ĐỨC CHÚA và gắn bó với những dân còn sót lại đang ở với anh em đó, nếu anh em kết duyên kết nghĩa với chúng, nếu anh em lui tới với chúng và chúng lui tới với anh em, thì hãy biết chắc rằng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, sẽ không còn tiếp tục trục xuất các dân đó cho khuất mắt anh em: chúng sẽ thành dò lưới và cạm bẫy hại anh em, thành roi quất vào sườn và gai đâm vào mắt, cho đến khi anh em biến khỏi mảnh đất tốt này mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em.
Hôm nay đây tôi bước vào đoạn đường mà mọi người trên đời này phải đi qua. Anh em hãy nhìn nhận với tất cả tấm lòng và tâm hồn, là trong mọi lời tốt lành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã phán với anh em, không một lời nào đã ra vô hiệu: mọi sự đã ứng nghiệm cho anh em ; không một lời nào đã ra vô hiệu.
Như mọi lời tốt lành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã phán hứa cho anh em đều ứng nghiệm, thì ĐỨC CHÚA cũng sẽ làm cho mọi lời nguyền rủa anh em được ứng nghiệm, cho đến khi anh em bị tiêu diệt khiến anh em không còn trên mảnh đất tốt này mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em.
Nếu anh em vi phạm giao ước mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em phải giữ, để đi phụng thờ các thần khác và sụp xuống lạy chúng, thì ĐỨC CHÚA sẽ bừng bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại anh em, và anh em sẽ mau chóng biến khỏi đất tốt lành Người đã ban cho anh em.”
Ngày 65 – Đại hội Si-khem
Giô suê 24,1-31
Ông Giô-suê quy tụ ở Si-khem y mọi chi tộc Ít-ra-en và triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. Ông Giô-suê nói với toàn dân: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: ‘Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Te-rác là cha của Áp-ra-ham và của Na-kho, đã phụng thờ các thần khác. Ta đã đem cha các ngươi là Áp-ra-ham từ bên kia Sông Cả mà dẫn đi khắp đất Ca-na-an. Ta đã cho dòng dõi nó nên đông đúc và ban I-xa-ác cho nó. Ta đã ban Gia-cóp và Ê-xau cho I-xa-ác. Ta cho Ê-xau chiếm hữu núi Xê-ia. Còn Gia-cóp và các con thì xuống Ai-cập. Ta đã sai Mô-sê và A-ha-ron đi ; Ta đã dùng những việc Ta làm ở Ai-cập mà đánh phạt nước ấy, rồi Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đó. Ta đã đưa cha ông các ngươi ra khỏi Ai-cập và các ngươi đã tới biển. Người Ai-cập, với chiến xa và kỵ binh, đuổi theo cha ông các ngươi cho đến Biển Sậy. Họ kêu lên ĐỨC CHÚA ; Người cho sương mù sa xuống giữa các ngươi và người Ai-cập, Người cho biển ập xuống vùi lấp chúng đi. Mắt các ngươi đã chứng kiến những việc Ta đã làm ở Ai-cập. Các ngươi đã ở lại lâu ngày trong sa mạc. Ta đã đem các ngươi vào đất người E-mô-ri. Chúng ở bên kia sông Gio-đan. Chúng đã giao chiến với các ngươi, nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm đất của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mắt các ngươi. Rồi Ba-lác, con của Xíp-po, vua Mô-áp, đã đứng lên giao chiến với Ít-ra-en. Ba-lác đã cho mời Bi-lơ-am, con của Bơ-o, đến nguyền rủa các ngươi. Nhưng Ta đã không muốn nghe Bi-lơ-am. Nó đã phải chúc phúc cho các ngươi, và Ta đã giải thoát các ngươi khỏi tay Ba-lác.
Các ngươi đã qua sông Gio-đan và tới Giê-ri-khô. Những người làm chủ Giê-ri-khô giao chiến với các ngươi: đó là người E-mô-ri, Pơ-rít-di, Ca-na-an, Khết, Ghia-ga-si, Khi-vi và Giơ-vút. Nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Ta đã thả ong bầu bay đi trước các ngươi ; chúng đuổi hai vua E-mô-ri đi cho khuất mắt các ngươi ; chính ong bầu chứ không phải cung kiếm của (các) ngươi đã đuổi chúng. Ta ban cho các ngươi đất (các) ngươi đã không vất vả khai phá, những thành các ngươi đã không xây mà được ở, những vườn nho và vườn ô-liu các ngươi đã không trồng mà được ăn.’”
“Bây giờ anh em hãy kính sợ ĐỨC CHÚA, hãy chân thành và trung tín phụng thờ Người. Anh em hãy vất bỏ các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả và ở Ai-cập, và hãy phụng thờ ĐỨC CHÚA. Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ ĐỨC CHÚA, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA.”
Dân đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ ĐỨC CHÚA để phụng thờ các thần khác! Vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. ĐỨC CHÚA đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mô-ri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.”
Ông Giô-suê nói với dân: “Anh em sẽ không thể phụng thờ ĐỨC CHÚA, vì Người là Thiên Chúa thánh thiện, Thiên Chúa ghen tuông ; Người sẽ không dung thứ tội phản nghịch cũng như tội lỗi của anh em đâu. Nếu anh em lìa bỏ ĐỨC CHÚA để phụng thờ các thần ngoại, Người sẽ quay lại chống anh em, giáng hoạ xuống anh em và tiêu diệt anh em, dù trước đây Người đã giáng phúc cho anh em.”
Dân nói với ông Giô-suê: “Không đâu, chúng tôi quyết phụng thờ ĐỨC CHÚA!” Ông Giô-suê nói với dân: “Anh em hãy cam đoan với chính mình là anh em đã chọn ĐỨC CHÚA để phụng thờ.” Họ nói: “Xin cam đoan!” Ông Giô-suê nói: “Bây giờ, anh em hãy vứt bỏ các thần ngoại đang ở với anh em, và hướng lòng về ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en.” Dân nói với ông Giô-suê: “Chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi, và chúng tôi sẽ nghe lời Người.”
Trong ngày ấy, ông Giô-suê thay mặt dân kết giao ước, ông đưa ra quy luật và điều luật ở Si-khem. Ông Giô-suê viết những lời đó trong Sách Luật của Thiên Chúa. Ông lấy một tảng đá lớn và dựng ở đó, dưới cây sồi trong nơi thánh của ĐỨC CHÚA. Ông Giô-suê nói với toàn dân: “Đây, tảng đá này sẽ làm chứng về những điều chúng ta đã cam đoan, vì nó đã nghe mọi lời ĐỨC CHÚA phán với chúng ta. Nó sẽ làm chứng về những điều anh em đã cam đoan, kẻo anh em chối bỏ Thiên Chúa của anh em.” Ông Giô-suê giải tán dân chúng, ai nấy trở về phần đất họ đã nhận làm gia nghiệp.
Sau những biến cố đó, tôi trung của ĐỨC CHÚA là ông Giô-suê, con ông Nun, từ trần, thọ một trăm mười tuổi. Người ta chôn cất ông tại thửa đất ông đã nhận được làm gia nghiệp ở Tim-nát Xe-rác, trong vùng núi Ép-ra-im ; phía bắc núi Ga-át. Ít-ra-en đã phụng thờ ĐỨC CHÚA suốt thời gian ông Giô-suê và các kỳ mục đến sau ông còn sống ; những người này biết tất cả công trình ĐỨC CHÚA đã thực hiện cho Ít-ra-en.
Ngày 66 – Bà Đơ-vô-ra và ông Ba-rắc
Thủ Lãnh 4,4-24
Bà Đơ-vô-ra, một nữ ngôn sứ, vợ ông Láp-pi-đốt, thời ấy làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en. Bà ngồi xử dưới cây Chà Là Đơ-vô-ra, giữa Ra-ma và Bết Ên, trên núi Ép-ra-im, và con cái Ít-ra-en đến với bà để bà xét xử cho. Bà sai người mời ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, từ Ke-đét thuộc Náp-ta-li tới, và nói với ông: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, lại không nói với ông thế này sao? Hãy đi chiêu mộ trong vùng núi Ta-bo lấy mười ngàn người trong số con cái Náp-ta-li và trong số con cái Dơ-vu-lun để đi với ngươi. Ta sẽ dụ tướng Xi-xơ-ra, chỉ huy quân đội vua Gia-vin tiến về phía ngươi, bên suối Ki-sôn, cùng với chiến xa và quân binh của nó, và Ta sẽ trao nó vào tay ngươi.” Ông Ba-rắc nói với bà: “Nếu bà đi với tôi thì tôi đi, nếu bà không đi với tôi thì tôi không đi.” Bà trả lời: “Chắc chắn tôi sẽ đi với ông. Có điều là trong chuyến đi này, vinh dự không thuộc về ông, vì ĐỨC CHÚA sẽ trao Xi-xơ-ra vào tay một người đàn bà.” Bà Đơ-vô-ra trỗi dậy đi với ông Ba-rắc đến Ke-đét. Ông Ba-rắc triệu tập Dơ-vu-lun và Náp-ta-li tiến về Ke-đét. Mười ngàn người theo chân ông, cả bà Đơ-vô-ra cũng đi với ông.
Ông Khe-ve, người Kê-ni, đã tách khỏi Ca-in, khỏi con cái ông Khô-váp, nhạc phụ ông Mô-sê, và đã dựng lều bên cây sồi tại Xa-an-na-gim, gần Ke-đét.
Người ta báo tin cho Xi-xơ-ra rằng: “Ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, đã lên núi Ta-bo”. Tướng Xi-xơ-ra liền tập trung tất cả các chiến xa, chín trăm xe sắt và toàn bộ lực lượng dưới quyền ông, đưa từ Kha-rô-sét Ha Gô-gim đến suối Ki-sôn. Bấy giờ bà Đơ-vô-ra nói với ông Ba-rắc: “Đứng lên! Vì đây là ngày ĐỨC CHÚA trao Xi-xơ-ra vào tay ông. ĐỨC CHÚA lại không xuất trận trước mặt ông sao?” Ông Ba-rắc từ núi Ta-bo đi xuống với mười ngàn quân theo sau. ĐỨC CHÚA dùng gươm của ông Ba-rắc đánh Xi-xơ-ra cùng với chiến xa và toàn thể doanh trại của ông này, khiến tất cả phải tán loạn trước mặt ông Ba-rắc. Xi-xơ-ra tụt khỏi xe và chạy bộ mà trốn. Ông Ba-rắc truy kích đoàn xe và quân binh cho đến Kha-rô-sét Ha Gô-gim. Tất cả quân binh của Xi-xơ-ra đều ngã gục dưới lưỡi gươm của ông Ba-rắc, không sót một tên.
Xi-xơ-ra chạy bộ trốn về phía lều bà Gia-ên, vợ ông Khe-ve, người Kê-ni, vì lúc ấy đang có hoà bình giữa Gia-vin, vua Kha-xo, với nhà Khe-ve, người Kê-ni. Bà Gia-ên ra đón Xi-xơ-ra, và nói với ông: “Thưa ngài, xin dừng lại, xin dừng lại nơi đây, đừng sợ!” Ông dừng lại, đi theo bà vào lều ; bà lấy tấm thảm phủ lên ông. Ông nói với bà: “Cho tôi xin chút nước uống, vì tôi khát quá.” Bà liền mở vò sữa, cho ông uống, rồi lại phủ kín ông. Ông nói với bà: “Xin bà đứng ở cửa lều, hễ ai đến hỏi có người nào ở đây không, thì bà nói: ‘Không.’” Nhưng bà Gia-ên, vợ ông Khe-ve, lấy cái cọc lều, tay cầm búa, lặng lẽ đến bên Xi-xơ-ra, đóng cọc vào màng tang ông, xuyên xuống đất, đang lúc ông ngủ say vì mệt. Thế là ông chết. Đang lúc ấy, ông Ba-rắc truy nã Xi-xơ-ra vừa tới, thì bà Gia-ên ra đón ông và nói: “Lại đây, tôi cho ông xem người ông đang tìm.” Ông đi theo bà, thì này, Xi-xơ-ra nằm chết với cái cọc xuyên màng tang.
Hồi đó Thiên Chúa hạ nhục Gia-vin, vua Ca-na-an, trước mặt con cái Ít-ra-en. Bàn tay con cái Ít-ra-en ngày càng đè nặng trên Gia-vin, vua Ca-na-an, cho đến khi họ tiễu trừ được Gia-vin, vua Ca-na-an.
Ngày 67 – Thiên Chúa gọi ông Ghít-ôn
Thủ Lãnh 6,1-40
Con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, nên ĐỨC CHÚA đã trao họ vào tay người Ma-đi-an trong bảy năm. Tay người Ma-đi-an đè nặng trên Ít-ra-en. Để tránh mặt người Ma-đi-an, con cái Ít-ra-en đã thiết lập những khu an toàn trong các vùng núi, những hang động hốc đá. Hễ Ít-ra-en gieo giống thì người Ma-đi-an, người A-ma-lếch và người Phương Đông cũng lên ; chúng lên chống lại Ít-ra-en. Chúng đóng trại bên cạnh họ và tàn phá hoa màu, đất đai cho đến sát Ga-da, không để sót lại vật gì trong Ít-ra-en, dù là gia súc hay bò lừa cũng vậy. Vì chúng lên cùng với đàn vật và lều trại của chúng, tiến vào nhiều vô kể như châu chấu ; chúng và lạc đà của chúng đông không đếm nổi. Chúng tràn vào tàn phá xứ sở. Như vậy người Ít-ra-en hoàn toàn kiệt quệ vì người Ma-đi-an. Và con cái Ít-ra-en đã kêu lên ĐỨC CHÚA.
Khi con cái Ít-ra-en kêu lên ĐỨC CHÚA về người Ma-đi-an, thì ĐỨC CHÚA đã sai một vị ngôn sứ đến với con cái Ít-ra-en. Ông nói với họ: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: Chính Ta đã đưa các ngươi lên khỏi Ai-cập, đã kéo các ngươi ra khỏi nhà nô lệ, đã giải thoát các ngươi khỏi tay Ai-cập, khỏi tay mọi kẻ áp bức các ngươi, và đã đuổi chúng cho khuất mắt các ngươi, đã ban cho các ngươi đất đai của chúng. Và Ta đã phán với các ngươi: Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được kính sợ các thần của người E-mô-ri, khi các ngươi cư ngụ trên đất của chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe tiếng Ta.”
Thần sứ của ĐỨC CHÚA đến và ngồi dưới cây tùng ở Óp-ra. Cây này là của ông Giô-át, thuộc gia đình A-vi-e-de. Con ông là Ghít-ôn bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Ma-đi-an. Thần sứ ĐỨC CHÚA hiện ra với ông và nói: “Chào chiến sĩ can trường! ĐỨC CHÚA ở với ông.” Ông Ghít-ôn đáp: “Ôi, thưa Ngài, nếu ĐỨC CHÚA ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này? Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng: chẳng phải ĐỨC CHÚA đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà bây giờ ĐỨC CHÚA đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Ma-đi-an.”
Bấy giờ ĐỨC CHÚA quay lại nhìn ông và nói: “Hãy mạnh bạo lên đường cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ma-đi-an. Không phải chính Ta sai ngươi sao?” Nhưng ông đáp: “Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Ít-ra-en? Này dòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Mơ-na-se, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con.” ĐỨC CHÚA phán với ông: “Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Ma-đi-an như đánh có một người.” Ông thưa: “Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài.” Người phán: “Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về.”
Ông Ghít-ôn đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, thì Thần sứ Thiên Chúa nói với ông: “Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên tảng đá này và rưới nước cốt lên.” Ông đã làm như thế.
Thần sứ của ĐỨC CHÚA giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Thần sứ ĐỨC CHÚA biến khỏi mắt ông. Ông Ghít-ôn thấy đó chính là Thần sứ ĐỨC CHÚA. Ông Ghít-ôn nói: “Chết tôi rồi, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng của tôi, vì tôi đã thấy Thần sứ ĐỨC CHÚA nhãn tiền!” Nhưng ĐỨC CHÚA phán với ông: “Bình an cho ngươi! Đừng sợ: ngươi không chết đâu.” Tại đó ông Ghít-ôn xây một bàn thờ kính ĐỨC CHÚA, và ông gọi nơi ấy là ĐỨC CHÚA – Bình an. Cho đến ngày nay, bàn thờ ấy vẫn còn tại Óp-ra, đất của gia đình A-vi-e-de.
Một đêm kia ĐỨC CHÚA phán bảo ông: “Hãy lấy con bò mộng của cha ngươi, con bò bảy tuổi, rồi phá huỷ bàn thờ Ba-an của cha ngươi và chặt đứt cây cột thần bên cạnh. Ngươi sẽ xây bàn thờ kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa ngươi, trên đỉnh của nơi kiên cố này, sắp xếp sao cho gọn ghẽ. Ngươi sẽ lấy con bò và dâng làm lễ toàn thiêu với gỗ cây cột thần ngươi đã chặt.” Vậy ông Ghít-ôn mang theo mười người đầy tớ và làm như ĐỨC CHÚA đã nói với ông. Tuy nhiên, vì sợ người nhà của cha mình và những người trong thành, ông không dám làm ban ngày, nên đã làm ban đêm. Sáng hôm sau, khi những người trong thành thức dậy, thì kìa bàn thờ Ba-an đã bị triệt hạ, cây cột thần cạnh đó đã bị chặt, và con bò mộng thứ hai đã được dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ mới xây. Họ nói với nhau: “Ai đã làm chuyện này thế?” Rồi họ điều tra và tìm hiểu, thì ra là ông Ghít-ôn, con ông Giô-át, đã làm chuyện đó. Dân thành liền nói với ông Giô-át: “Đưa con ông ra đây! Nó phải chết, vì nó đã triệt hạ bàn thờ Ba-an và đã chặt đứt cây cột thần bên cạnh.” Ông Giô-át nói với tất cả mọi người đứng trước mặt ông: “Các anh bênh quyền lợi của Ba-an ư? Hay là các anh tính cứu thần đó? Kẻ nào bênh quyền lợi Ba-an sẽ phải chết trước khi trời rạng sáng. Nếu Ba-an là thần thì Ba-an cứ tự biện hộ. Ghít-ôn đã phá bàn thờ của Ba-an đó.” Ngày hôm ấy, người ta gọi ông Ghít-ôn là Giơ-rúp-ba-an, mà rằng: “Xin Ba-an đối phó với hắn, vì hắn đã triệt hạ bàn thờ của người.”
Tất cả các người Ma-đi-an, người A-ma-lếch và người Phương Đông đều nhất tề tập hợp ; họ băng qua sông và đóng trại tại đồng bằng Gít-rơ-en. Ông Ghít-ôn được đầy thần khí của ĐỨC CHÚA ; ông rúc tù và, và người A-vi-e-de quy tụ lại sau lưng ông. Ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc Mơ-na-se, và họ quy tụ lại sau lưng ông ; ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc A-se, Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, họ cũng đều tiến lên đón ông.
Ông Ghít-ôn thưa với Thiên Chúa: “Nếu đúng là Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán, thì này đây con đặt một mớ lông cừu trong sân lúa: nếu chỉ có sương trên lông cừu mà thôi, còn tất cả mặt đất đều khô, thì con biết Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán.” Và đã xảy ra như vậy. Sáng hôm sau ông dậy sớm, bóp mớ lông cừu, vắt cho sương chảy ra đầy một chén nước. Ông Ghít-ôn lại thưa với Thiên Chúa: “Xin Ngài đừng thịnh nộ với con, để con được nói một lần nữa. Xin cho con được trắc nghiệm bằng lông cừu một lần nữa thôi: chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.” Đêm ấy Thiên Chúa đã làm như vậy. Chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.