Hợp thức hôn nhân

Giáo Luật Hội Thánh Công Giáo quy định về việc hợp thức hôn nhân tại các điều 1156-1165. Trong đó, có hai hình thức hợp thức hôn nhân được nhắc tới là Thành Sự Hóa Đơn Thuần và Điều Trị Tại Căn.

1. Thành Sự Hóa Đơn Thuần

Việc thành sự hóa đơn thuần có thể thực hiện tại giáo xứ và do cha xứ xem xét cũng như hướng dẫn cho từng trường hợp cụ thể.

a, Nếu việc rối hôn phối là do có ngăn trở thì điều kiện đầu tiên là ngăn trở đó đã chấm dứt, không còn tồn tại hoặc được miễn chuẩn. Sau khi ngăn trở chấm dứt thì cha xứ tiến hành các thủ tục cần thiết để hợp thức hóa hôn nhân.

Ví dụ 1: Ngăn trở do tuổi vì khi kết hôn khi chưa đủ tuổi quy định (20 tuổi trọn -nam; 18 tuổi trọn – nữ). Trong trường hợp này, ngăn trở chấm dứt là khi họ đã đủ hoặc vượt qua số tuổi trên.

Ví dụ 2: Ngăn trở do dây hôn phối là khi kết hôn mà một trong hai người đã từng trải qua một cuộc hôn nhân tan vỡ. Ngăn trở chấm dứt là khi người đã ly dị trước đó qua đời.

Ví dụ 3: Ngăn trở khác đạo là khi kết hôn mà chưa xin miễn chuẩn hôn nhân khác đạo. Ngăn trở này chấm dứt khi làm đơn xin miễn chuẩn hôn nhân khác đạo và được chấp thuận.

b, Nếu viêc rối hôn phối là do bị ép buộc hoặc thiếu sự ưng thuận khi kết hôn của một trong hai người hoặc cả hai, thì việc thành sự hóa là lặp lại sự ưng thuận theo thể thức giáo luật. Tùy trường hợp mà một người hoặc cả hai người sẽ lặp lại sự ưng thuận cách công khai hoặc kín đáo.

Ví dụ 1: Nếu chị M bị ép buộc lấy anh P. Chị đã tìm nhiều cách để không kết hôn nhưng sau cùng vẫn tiến tới hôn nhân để vừa lòng ai đó. Tuy nhiên, khi về chung sống, Anh P yêu chị tha thiết khiến chị M thay đổi. Giờ đây, chị không còn chống đối cuộc hôn nhân nữa nhưng hoàn toàn ưng thuận và hài lòng với cuộc hôn nhân này. Trong trường hợp như thế, việc hợp thức hóa hôn nhân được tiến hành cách đơn giản là chị M chỉ cần lặp lại sự ưng thuận theo thể thức giáo luật trước sự chứng kiến của cha xứ và một người khác nữa là đủ.

Ví dụ 2: Vì lỡ có thai ngoài ý muốn, hai anh chị tiến tới hôn nhân để bảo vệ danh dự của nhau và của gia đình chứ cả hai đều không hề ưng thuận kết hôn, thậm chí còn dự định sẽ ly dị sau khi đứa trẻ chào đời. Điều này ai cũng rõ vì họ sống như thể đang ly thân, cơm ai nấy lo, việc ai nấy làm cho dẫu chung nhà sau kết hôn. Thế nhưng sau khi đứa trẻ chào đời, hai anh chị muốn cùng nhau chăm sóc đứa trẻ và quyết định duy trì cuộc hôn nhân. Trong trường hợp như vậy, việc hợp thức hóa hôn nhân được tiến hành bằng cách cả hai phải lặp lại sự ưng thuận theo thể thức giáo luật trước sự chứng kiến của cha xứ và hai người khác nữa hoặc trước cộng đoàn.

c, Nếu việc rối hôn phối là do thiếu thể thức giáo luật quy định, nghĩa là hai anh chị công giáo nhưng chỉ tổ chức kết hôn dân sự, thì việc hợp thức hóa hôn nhân là bày tỏ sự ưng thuận theo thể thức giáo luật.

Ví dụ: Vì không có bằng giáo lý hoặc chưa đáp ứng đủ các điều kiện để kết hôn theo quy định, cha xứ không chứng hôn cho hai anh chị. Tuy nhiên, sau khi đăng ký hết hôn dân sự, hai gia đình tổ chức tiệc mừng và hai anh chị về chung sống trong một nhà. Vài năm sau, một cha khác tới coi xứ và phát hiện ra tình trạng của anh chị. Sau khi tiến hành các thủ tục cần thiết, cha xứ tổ chức hợp thức hóa hôn nhân cho anh chị bằng việc cử hành bí tích Hôn Phối.

2. Điều trị tại căn

Việc này được thực hiện bởi Đức Giám Mục giáo phận ở cấp giáo phận hoặc bởi Đức Giáo Hoàng và những vị được ủy quyền ở cấp Tòa Thánh Vatican.

Các ưu điểm của việc hợp thức này là:

– Không buộc phải lặp lại sự ưng thuận hôn nhân. Việc điều trị tại căn có thể được thực hiện ngay cả khi một trong hai người (vợ – chồng) hoặc cả hai không biết.

– Hiệu lực hồi tố được tính từ lúc hôn nhân được cử hành trước đó hoặc từ lúc hai người bày tỏ sự ưng thuận kết hôn.

– Bao hàm cả việc miễn chuẩn ngăn trở và miễn chuẩn thể thức bày tỏ sự ưng thuận theo giáo luật.

Các trường hợp áp dụng

a, Hôn nhân bị HÀ TỲ do cha chủ sự không có quyền chứng hôn

Ví dụ: Cha xứ đi vắng ủy quyền cho cha phụ tá dâng lễ cưới cho anh A và chị B. Vào ngày lễ cưới đã ấn định, một cha khách là bạn của cha phụ tá tới giáo xứ, bất ngờ nhận ra cô dâu là bạn học cùng lớp thời sinh viên nên xin cha phụ tá cho dâng lễ cưới thay ngài. Ba hôm sau ngày lễ cưới đó, cha xứ biết chuyện đã xảy ra và xác định hôn nhân đó bị HÀ TỲ vì cha khách không có quyền chứng hôn.

Trong trường hợp này, cha xứ làm đơn xin Đức Giám Mục giáo phận hợp thức hôn nhân cho đôi bạn bằng việc điều trị tại căn, cho dù là đôi bạn không hề biết tới việc hôn nhân của mình bị hà tỳ cũng như việc hợp thức kể trên.

b, Hôn nhân bất thành do mắc ngăn trở

Ví dụ: Sau khi kết hôn với chị M được ba năm, anh A phát hiện ra chị M là con của Dì Út đã thất lạc từ thuở nhỏ, nghĩa là anh A và chị M là anh em con Dì con Già (anh em họ). Hôn nhân này bất thành vì mắc ngăn trở huyết tộc bậc thứ 4. Dù vậy, hai người rất thương yêu nhau và mong muốn được hợp thức hôn nhân.

Trong trường hợp kể trên, cha xứ hướng dẫn anh chị làm đơn xin hợp thức hôn nhân theo hình thức điều trị tại căn.

c, Hôn nhân bất thành do thiếu thể thức giáo luật

Ví dụ: Anh D thương chị G và muốn tiến tới hôn nhân nhưng gia đình anh kịch liệt phản đối. Vậy là hai anh chị rời quê hương đi nước ngoài làm ăn và sống với nhau như vợ chồng. Sau hơn hai mươi năm phiêu bạt, hai anh chị cùng con cháu hồi hương và xin hợp thức hôn nhân.

Trong trường hợp này, cha xứ có thể áp dụng hình thức thành sự hóa hôn nhân đơn thuần hoặc hướng dẫn họ viết đơn xin hợp thức hôn nhân bằng việc điều trị tại căn.

d, Một số trường hợp cần phải gửi sang Tòa Thánh Vatican

– Hôn nhân với ngăn trở do chức thánh,

– Hôn nhân với ngăn trở do lời khấn công vĩnh viễn giữ đức khiết tịnh trong một hội dòng thuộc luật giáo hoàng,

– Hôn nhân với ngăn trở do tội ác (giết người phối ngẫu)

3. Muốn hợp thức hôn nhân thì cần tiến hành những thủ tục gì?

Câu trả lời là TÙY CHA XỨ hướng dẫn và sắp xếp cho mỗi trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, có thể tóm gọn thành bốn bước, đó là GẶP – GỠ – HỢP – SAU.

a, Gặp

Khi nhận ra tình trạng “rối hôn phối” của mình, anh hoặc chị hoặc cả hai hãy tìm đến gặp cha xứ để kể cho ngài nghe về tình trạng đó. Cha xứ được nhắc tới ở đây có thể là:

– Cha xứ tại nơi bạn lãnh nhận bí tích Rửa Tội (nguyên quán)

– Cha xứ tại nơi bạn đã cử hành Hôn Phối (nếu có)

– Cha xứ tại nơi bạn đang cư trú

b, Gỡ

Sau khi lắng nghe câu chuyện, cha xứ sẽ tùy từng trường hợp mà gỡ rối. Rối chỗ nào thì gỡ chỗ đó. Đương nhiên, ngài cũng cần nhắc lại những nội dung giáo lý cơ bản, giáo lý hôn nhân, và việc sống đạo và những điều cần thiết liên quan tới đời sống gia đình Công Giáo.

c, Hợp

Chính là việc hợp thức hôn nhân. Sau khi đã chuẩn bị các giấy tờ, đơn từ cần thiết, cũng như các ngăn trở đã được tháo gỡ hoặc chấm dứt, cha xứ sẽ tiến hành hợp thức hôn nhân cho đôi bạn theo hình thức THÀNH SỰ HÓA ĐƠN THUẦN hoặc sẽ gửi đơn về giáo phận hoặc sang Tòa Thánh để xin hợp thức hôn nhân cho đôi bạn theo hình thức ĐIỀU TRỊ TẠI CĂN.

d, Sau

Nghĩa là sau khi đã hợp thức hôn nhân. Lúc này, cha xứ sẽ có những hướng dẫn cụ thể, động viên đôi bạn và gia đình tham gia vào các sinh hoạt của xứ họ như các gia đình khác trong vùng.

Lưu ý: Các giấy tờ cần chuẩn bị

– Chứng nhận rửa tội, thêm sức, hôn phối (nếu có)

– Giấy đăng ký kết hôn dân sự

– Đơn xin hợp thức hôn nhân

Hợp thức hóa hôn nhân là phương thế hữu hiệu và cần thiết để giúp cho các gia đình đang ở trong tình trạng “RỐI HÔN PHỐI” tìm lại được bình an và sống trong nguồn ân sủng mà Bí Tích Hôn Phối mang lại. Cầu chúc anh chị em luôn an vui trong tình yêu Thiên Chúa. Amen!

Lm. Giuse Hoàng Trọng Hữu