Hy Vọng Trong Cuộc Đời

Bố tôi từng nói thời gian ông sống trong hy vọng là ba ngày chờ đợi sau lời “cầu hôn” với mẹ. Ba ngày ấy, bố mất ăn mất ngủ, chẳng có tâm trí để làm gì. Bố sợ rằng sẽ bị từ chối vì cũng biết mẹ đang được nhiều người theo đuổi.

Tôi còn nhớ, lúc ấy mình đã cười hết nấc mà nói: “Đấy đâu phải hy vọng bố ơi! Bố đang sống trong sợ hãi thì đúng hơn. Bố chưa nghe bài hát ‘đợi chờ là hạnh phúc’ à?”. Đợi chờ mà không hạnh phúc sao gọi là hy vọng được nhỉ?

Thế rồi tôi chợt nghĩ, trong lịch sử cứu độ chẳng phải cũng đã có một cuộc “cầu hôn” như vậy hay sao? Thiên Chúa ngỏ lời với Maria về một Đấng Cứu Thế sẽ đến nơi cung lòng của nàng. Kể từ đó, Maria luôn sống trong hy vọng về Đấng mà các sách ngôn sứ đã loan báo. Chỉ có điều, người thiếu nữ Sion ấy đã không sống trong thấp thỏm và lo lắng như bố của tôi.

Bởi lẽ, dù Đấng Cứu Thế vẫn còn trong lời hứa thì Mẹ đã cất lên lời Ngợi Khen-Manificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng” (Lc 1, 46-47). Mẹ thực sự đã vui mừng trong hy vọng vì tin tưởng chắc chắn Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Người.

Tôi nghĩ rằng, sở dĩ chúng ta hy vọng mà lòng vẫn âu lo, là bởi đối tượng hy vọng của con người vốn chỉ là những thụ tạo, mang trong mình bản tính bất tất nghĩa là “nay còn mai mất”. Hy vọng của con người cũng vì thế mà luôn bấp bênh.

Đức Maria thì khác, Mẹ đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng Hằng Hữu và Trung Tín. Vậy nên ai đặt hy vọng vào Người đều vui mừng hớn hở vì biết hy vọng ấy sẽ được thành toàn.

Có thể bạn sẽ nói: “Tôi cũng đặt hy vọng vào Chúa khi con tôi bệnh tật, khi gia đình khó khăn, khi chiến tranh xảy ra trên thế giới. Nhưng sao hy vọng cứ biến thành thất vọng!”.

Bạn mến! Đức Maria đã không hy vọng vào một Đấng Mêsia đến để giải quyết những “vấn đề” của Mẹ như chuyện nghèo đói, bệnh tật. Đức Maria cũng chẳng chờ mong vào một Đấng Cứu Thế xuất hiện để giải quyết “vấn nạn” cho dân tộc của mình, một dân bị đô hộ dưới ách Rôma.

Chính vì thế, ta không nghe thấy lời của Mẹ trong đám đông phẫn nộ: “Nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá này đi!” (Mt 27,40). Đây là lời của những ai hy vọng vào một Đấng Cứu Thế vinh thắng nhưng lại chối từ thập giá là những đau khổ trong kiếp nhân sinh. Còn những ai hy vọng vào Thiên Chúa để giải quyết vấn đề của mình cũng sẽ nói: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy cứu mình và cứu cả chúng tôi nữa” (Lc 23,39).

Đức Maria thì chỉ lặng thinh đón nhận những đau khổ trong niềm cậy trông vào kế hoạch của Thiên Chúa. Hyvọng đã giúp Mẹ đứng vững dưới chân thập giá là chính Đức Giêsu, Cứu Chúa của Mẹ, vì tin chắc rằng “kết quả tốt đẹp” trong chương trình của Thiên Chúa đang gần kề.

Như vậy, hy vọng vào Thiên Chúa là chờ mong chính Người và kế hoạch tốt lành của Người nơi chúng ta. Chỉ tiếc là con người lại thường hy vọng vào Thiên Chúa để thực hiện chương trình, hay để giải quyết những vấn đề của mình. Con người hy vọng vào một Thiên Chúa có thể đưa họ xuống khỏi thập giá trên đồi “Can-vê” của cuộc đời. Nhưng như thế là từ chối đón nhận Thiên Chúa như chính Người là. Một Thiên Chúa sẵn sàng chết trên thập giá, Người đã đón nhận và đi vào giữa những đau khổ trong kiếp người, để mở ra một lối đi mới từ giữa những khổ đau và nghịch cảnh ấy, đó là hy vọng cho con người khi phải đối diện với sự dữ và đau khổ trong đời.

            Đức Hồng Y Cantalamessa giải thích rõ hơn khi nói rằng: “Muốn chứng minh chén nước không có độc, cách tốt nhất là uống chén nước đó trước mặt người khác”. Chúa Giêsu đã uống cạn chén đau khổ trên thập giá và đã Phục Sinh để nói với chúng ta rằng, chén đau khổ trong cuộc đời này không có độc! Đừng sợ hãi trước những khổ đau, hãy can đảm lên vì niềm hy vọng của chúng ta là Đức Giêsu đã chiến thắng. Chỉ khi uống cạn chén đau khổ, ta mới thấy viên ngọc của sự phục sinh.

Niềm hy vọng ấy hẳn phải cho ta thêm can đảm và hân hoan bước đi trong cuộc đời này chứ nhỉ? Tôi tự hỏi mùa Vọng này và trong suốt cuộc đời, tôi đang chờ mong Đấng Cứu Thế nào? Tôi có hạnh phúc chờ đợi Ngài như một món quà, hay là một “công cụ” cho những kế hoạch của riêng tôi?

Nắng Ấm