Thừa tác viên cho Rước lễ
Thừa tác viên cho Rước lễ là ai?
I. Thừa tác viên thông thường
Thừa tác viên thông thường cho rước lễ là Giám mục, Linh mục và Phó tế, vì các ngài đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh[1].
II. Thừa tác viên ngoại thường
Ngoài các thừa tác viên thông thường, các chủng sinh đã lãnh nhận Tác vụ Giúp lễ là thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ, kể cả ngoài lúc cử hành Thánh lễ. Hơn nữa, nếu có lý do thật cần thiết[2], Giám mục Giáo phận cũng có thể cử một số giáo dân làm thừa tác viên ngoại thường, từng lần (ad actum) hay một thời gian (ad tempus), theo các quy tắc của Giáo luật[3].
- Lịch sử
– Thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ là đặc ân mà Giáo Hội ban cho một số tín hữu (nam nữ tu sĩ và giáo dân) để họ phục vụ dân Chúa theo mẫu gương của chính Chúa Giêsu, Đấng đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ (x. Mc 10,45)
– Thời Giáo Hội sơ khai, việc trao Mình Thánh Chúa có ít ràng buộc hơn hiện nay, chẳng hạn: một bệnh nhân có thể nhờ bạn mình mang Mình Thánh về nhà cho mình.
– Từ thế kỷ 8-20, Giáo Hội giới hạn, thừa tác viên thông thường cho rước lễ là Giám mục và Linh mục; Phó Tế là thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ. Trong một vài trường hợp đặc biệt, giáo dân mới được rước Máu Thánh, và họ không được rước Mình Thánh bằng tay.
– Năm 1969, vì nhu cầu mục vụ, công đồng Vatican II đã nới rộng và thay đổi qui tắc mục vụ Thánh Thể, Phó tế được nhận vào hàng thừa tác viên thông thường cho rước lễ. Giáo dân có thể trở thành thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ khi họ được ủy nhiệm.
– Năm 1972 vì thiếu tu sĩ và vì nhu cầu của mục vụ, Giáo hội cho phép các thừa tác viên ngoại thường được phép mang Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân ở nhà họ hoặc ở bệnh viện.
- Tên gọi
Chức vụ này phải được hiểu, theo nghĩa hẹp của nó, có tên gọi là thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ, chứ không phải “thừa tác viên đặc biệt cho rước lễ”, cũng không phải là “thừa tác viên ngoại thường của Thánh Thể”, hoặc là “thừa tác viên đặc biệt của Thánh Thể”. Thật vậy, các tên gọi đó có tác dụng nới rộng nghĩa của chức vụ đó một cách vừa không đúng phép vừa không thích hợp[4].
- Thừa tác viên từng lần (ad actum)
Trong một trường hợp đặc biệt, và không thể tiên liệu trước, linh mục chủ tế có thể cho phép một tín hữu đạo đức, có uy tín cho rước lễ trong lần đó[5].
- Thừa tác viên lâu dài (ad tempus)
Vì nhu cầu thực sự cần thiết[6] mà lại thiếu các thừa tác viên thông thường cho rước lễ, cha xứ có thể đệ đơn xin Đấng Bản quyền địa phương ủy nhiệm những thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ[7] trong thời gian ba năm[8].
- Các điều kiện cần thiết
Người được tuyển chọn làm thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ phải là tín hữu có đời sống đức tin tốt, bản thân và gia đình không có điều tiếng xấu trong giáo xứ hoặc giáo họ. Nếu là giáo dân, thì thường là nam giới, tuổi đời từ 55 đến 70, có sức khỏe thể lý và tâm lý đủ để chu toàn công việc được giao phó.
Thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ phải được Đức Giám mục cho phép, nếu là thừa tác viên lâu dài (ad tempus), buộc phải được đào tạo cách thích hợp và cần thiết để chu toàn nhiệm vụ của mình cách xứng đáng, và buộc phải hoàn thành nhiệm vụ này một cách ý thức, tận tâm và cần mẫn[9].
- Y phục
“Các thừa tác viên giúp lễ, đọc sách, và các thừa tác viên giáo dân khác có thể mặc áo trắng dài hay một kiểu áo khác được Hội đồng Giám mục chấp thuận cách hợp pháp cho mỗi miền. Tại Việt Nam, ngoài áo trắng dài chung cho các thừa tác viên phụng vụ, các thừa tác viên nam không có chức thánh, có thể mặc âu phục với cà vạt hoặc áo dài khăn đóng; nữ có thể mặc áo dài thông thường hoặc áo dài với khăn vành truyền thống Việt Nam”[10].
“Người giáo dân không bao giờ được phép đảm trách các chức vụ của phó tế hay linh mục, và mặc những y phục dành riêng cho các ngài, kể cả những y phục tương tự”[11].
7. Một số điều phải tuân giữ khi thi hành công việc
- Thừa tác viên ngoại thường cần phải tham dự Thánh lễ mà họ cho các tín hữu rước lễ cũng như chuẩn bị tâm hồn cách xứng đáng nhất cho việc phục vụ thánh mà họ sẽ thi hành.
- Thừa tác viên ngoại thường chỉ có nhiệm vụ trao Mình Thánh cho giáo dân, vì thế họ chỉ tiến tới bàn thờ sau khi linh mục đã rước lễ[12].
- Thừa tác viên ngoại thường không được tự mình rước lễ như các linh mục đồng tế, và luôn phải nhận bình đựng Mình Thánh từ tay linh mục[13].
- Thừa tác viên ngoại thường cung kính mỗi khi cầm bình đựng Mình Thánh, không cầm thấp ngang bụng hay ngang thắt lưng, nhưng phải cầm cao ngang ngực hay ngang với cằm.
- Mỗi lần trao Mình Thánh cho giáo dân, thừa tác viên nâng Mình Thánh lên và xướng “Mình Thánh Chúa Kitô” rồi trao cho người rước lễ[14]. Lưu ý không cầm nhiều Mình Thánh một lần và đưa liên tục cho các người rước lễ. Đây là hành vi bất kính đối với Mình Thánh Chúa.
- Các thừa tác viên ngoại thường không cho rước lễ khi có đủ các thừa tác viên có chức thánh.
- Các thừa tác viên ngoại thường, trong mọi hoàn cảnh, không được phép nhờ người khác không phải là thừa tác viên ngoại thường thay thế mình cho rước lễ trong Thánh lễ và ngoài Thánh lễ[15].
- Các tín hữu có thể rước lễ bằng miệng hoặc bằng tay. Nếu họ rước lễ bằng tay, họ phải rước lễ trước mặt thừa tác viên, và họ chỉ được rời đi sau khi họ đã đưa Mình Thánh vào miệng. Vì vậy, khi cho các tín hữu rước lễ bằng tay, thừa tác viên phải giám sát việc này[16].
- Thừa tác viên ngoại thường không được dồn Mình Thánh từ các bình đựng Mình Thánh và tráng chén hay tráng bình. Đây là việc dành riêng cho các linh mục, phó tế và thầy đã nhận tác vụ giúp lễ[17].
- Ngoài việc trao Mình Thánh Chúa trong Thánh lễ, các thừa tác viên ngoại thường còn được phép (nếu được cha xứ giao) kiệu Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân. Khi kiệu Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân, thừa tác viên ngoại thường phải nhận Mình Thánh Chúa từ tay linh mục, không được tự ý mở cửa nhà chầu rồi lấy Mình Thánh Chúa. Sau khi nhận Mình Thánh Chúa phải kiệu ngay tới nhà hoặc nơi bệnh nhân đang ở và cho bệnh nhân rước Mình Thánh Chúa. Khi kiệu Mình Thánh Chúa phải ăn mặc xứng đáng, không cười cợt hoặc nói chuyện với người khác. Mình Thánh Chúa phải được đựng trong hộp được làm để đựng Mình Thánh Chúa thường được gọi là “luna”, có dây, và thừa tác viên ngoại thường đeo hộp đựng Mình Thánh Chúa vào cổ. Không bỏ hộp đựng Mình Thánh Chúa vào túi quần hoặc túi áo…
8. Các câu hỏi thường gặp
a. Thừa tác viên ngoại thường có được phép bẻ Bánh Thánh hay không?
Trong thực tế có thể xảy ra như sau: khi thừa tác viên ngoại thường đang cho rước lễ, chỉ còn 2-3 Mình Thánh nữa, trong khi còn khoảng 5-6 người muốn rước lễ nữa mà không còn Mình Thánh. Trong trường hợp này, có thể bẻ Mình Thánh Chúa.
b. Khi thừa tác viên ngoại thường cho giáo dân rước lễ hết bình đựng Mình Thánh, có thể tự động tiến lên bàn thờ để lấy bình đựng Mình Thánh khác hay không?
Có thể tự lên lấy bình đựng Mình Thánh khác.
c. Một ngày, thừa tác viên ngoại thường được phép rước lễ mấy lần?
Hiện nay, Giáo Hội cho phép mỗi ngày, các tín hữu được rước lễ hai lần, tuy nhiên chỉ trong Thánh Lễ mà họ tham dự: “Người nào đã rước lễ rồi, thì có thể rước lễ lần nữa trong cùng một ngày, nhưng chỉ trong buổi cử hành Thánh Thể mà họ tham dự” (GL, điều 917). Tuy nhiên, Ủy ban giải thích giáo luật đã tuyên bố rằng “lần nữa” phải hiểu là lần thứ hai mà thôi. Không có nghĩa là tham dự bao nhiêu Thánh Lễ thì rước lễ bấy nhiêu lần[18].
d. Nhà chầu và đèn chầu là gì?
– Nhà chầu
Giải thích về sự hiện diện của đèn chầu, Giáo hội dạy như sau: “Tùy theo cấu trúc của mỗi nhà thờ và theo thói quen chính đáng của mỗi địa phương, nên lưu giữ Mình Thánh Chúa trong một nhà tạm đặt trong một nơi trang trọng xứng đáng, dễ thấy, có trang trí và thích hợp cho việc cầu nguyện. Thông thường thì chỉ có một nhà tạm, không thể di chuyển, làm bằng vật liệu cứng, chắc chắn, không trong suốt và phải được khóa kỹ để ngăn ngừa tối đa nguy cơ bị xúc phạm”[19].
Nhà chầu là nơi Chúa ngự, vì vậy không được phép đặt hoa trên nhà chầu. Tuy nhiên, có thể đặt hoa bên cạnh nhà chầu để diễn tả lòng tôn kính.
– Đèn chầu
Đèn chầu được thắp sáng diễn tả việc tôn kính Chúa Giêsu Thánh Thể đang ngự trong nhà chầu. Đèn chầu còn được diễn tả như người lính canh gác Chúa Giêsu.
Giải thích về sự hiện diện của đèn chầu, Giáo hội dạy như sau: “Bên cạnh nhà tạm phải có một ngọn đèn luôn cháy sáng, bằng dầu hay sáp, để chỉ rõ và tôn kính sự hiện diện của Chúa Kitô”[20].
e. Bàn thờ, khăn bàn thờ, khăn thánh, khăn lau tay
– Khăn bàn thờ
“Bàn thờ phải phủ ít là một khăn màu trắng”[21].
– Khăn thánh, khăn lau chén
“Bàn thờ hay bàn ăn của Chúa, tâm điểm nơi diễn ra toàn bộ phần phụng vụ Thánh Thể, phải trải trên đó một khăn thánh, đặt khăn lau chén, sách lễ và chén lễ, trừ khi chén lễ được dọn ở bàn phụ”[22].
Lm. Giu-se Đào Hữu Thọ – TGP Hà Nội
[1] Huấn Thị Bí Tích Cứu Độ – Redemptionis Sacramentum, số 154.
[2] “Không có linh mục hay phó tế, khi linh mục bị ngăn trở vì bệnh tật, vì lớn tuổi hay vì một lý do khác nghiêm trọng, hơn nữa khi số tín hữu rước lễ quá đông, có thể kéo dài quá mức việc cử hành Thánh Lễ” (Huấn Thị Bí Tích Cứu Độ – Redemptionis Sacramentum, số 158).
[3] Huấn Thị Bí Tích Cứu Độ – Redemptionis Sacramentum, số 155.
[4] Huấn Thị Bí Tích Cứu Độ – Redemptionis Sacramentum, số 156.
[5] X. BỘ GIÁO SĨ VÀ CÁC BỘ KHÁC, Huấn thị liên bộ Ecclesiae de mysterio, đ.8 § 1.
[6] X. BỘ GIÁO SĨ VÀ CÁC BỘ KHÁC, Huấn thị liên bộ Ecclesiae de mysterio 15.08.1997, đ.8, trong AAS 89 (1997), 852-877; EV 16/725. Nhu cầu cần thiết như: để phục vụ bệnh nhân xa xôi, hoặc những cộng đoàn phụng vụ rất đông tín hữu rước lễ.
[7] X. Giáo luật, đ.230 § 3.
[8] X. THÁNH BỘ KỶ LUẬT VÀ BÍ TÍCH, Huấn Thị Fidei custos, 30.4.1969, số 9, trong EV 3/1065.
[9] Giáo luật, đ.231.
[10] X. Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma, số 339.
[11] Huấn Thị Bí Tích Cứu Độ – Redemptionis Sacramentum, số 153.
[12] Qui chế tổng quát Sách Lễ Rôma năm 2000, số 162.
[13] X. BỘ GIÁO SĨ VÀ CÁC BỘ KHÁC, Huấn thị liên bộ Ecclesiae de mysterio, đ.8 § 2.
[14] X. Quy chế tổng quát sách lễ Rôma, số 244.
[15] X. Huấn Thị Bí Tích Cứu Độ – Redemptionis Sacramentum, số 159.
[16] X. ĐGH. BÊNÊĐÍCTÔ XVI, Tông huấn Bí tích tình yêu, số 92.
[17] X. Quy chế tổng quát sách lễ Rôma, số 279.
[18] Ủy ban giáo hoàng giải thích giáo luật, ngày 26/6/1984, trong Acta Apostolicae Sedis 76 (1984) 746-747.
[19] X. Quy chế tổng quát sách lễ Rôma, số 314.
[20] X. Quy chế tổng quát sách lễ Rôma, số 316.
[21] X. Quy chế tổng quát sách lễ Rôma, số 117.
[22] X. Quy chế tổng quát sách lễ Rôma, số 73.