Tuần 19, ngày 124-130: Sắc chỉ tru diệt người Do-thái | 365 ngày Hiệp hành với Lời Chúa

Ngày 124 – Sắc chỉ tru diệt người Do-thái

Ét-te 3,1-15

Sau biến cố đó, vua A-suê-rô thăng chức cho ông Ha-man, con ông Hăm-mơ-đa-tha, người A-gác. Vua cất nhắc ông lên, đặt ông đứng đầu mọi khanh tướng hầu cận vua. Quần thần nhất nhất đều cúi chào bái lạy ông Ha-man vì vua đã truyền như thế. Nhưng ông Moóc-đo-khai đã chẳng cúi chào, cũng không bái lạy. Quần thần trong triều nói với ông Moóc-đo-khai: “Tại sao ông lại lỗi lệnh vua?” Ngày nào họ cũng lặp đi lặp lại như thế, nhưng ông vẫn không chịu nghe ; Ông cho họ thấy ông là người Do-thái. Họ mới trình sự việc cho ông Ha-man để xem ông Moóc-đo-khai còn giữ thái độ đó nữa không. Khi thấy ông Moóc-đo-khai chẳng cúi chào, cũng không bái lạy mình, ông Ha-man hết sức phẫn nộ. Nhưng đối với ông Ha-man, vì đã biết ông Moóc-đo-khai thuộc dân tộc nào, nên nếu chỉ giết một mình ông ta thôi thì tầm thường quá. Vì vậy, ông Ha-man tìm cách tiêu diệt cả dân tộc của ông Moóc-đo-khai. Đó là hết mọi người Do-thái đang sống trong toàn vương quốc của vua A-suê-rô.

Tháng thứ nhất, tức tháng Ni-xan, vào năm thứ mười hai triều đại vua A-suê-rô, người ta gieo “Pua” (nghĩa là bắt thăm) trước mặt ông Ha-man để biết ngày biết tháng. Thăm rơi trúng ngày mười bốn tháng thứ mười hai, tức là tháng A-đa. Ông Ha-man thưa với vua A-suê-rô: “Trong khắp các miền thuộc vương quốc của đức vua, có một dân sống tản mác, rải rác đó đây giữa các dân. Luật lệ của chúng không giống như luật lệ của bất cứ dân nào khác. Luật lệ của đức vua, chúng chẳng tuân chẳng giữ. Quyền lợi của đức vua không cho phép để chúng yên như vậy. Nếu đẹp lòng đức vua, thì xin đức vua cho viết sắc lệnh tru diệt chúng. Thần xin cân ba trăm ngàn ký bạc v trao cho công chức x đem vào kho bạc của đức vua.” y

Bấy giờ, vua tháo bửu ấn ở tay ra trao cho cừu địch của người Do-thái là ông Ha-man, con ông Hăm-mơ-đa-tha, người A-gác. Rồi vua nói với ông Ha-man: “Ta tặng khanh số bạc đó, trao cho khanh cả dân tộc đó nữa. Khanh muốn làm gì chúng thì làm.”

Ngày mười ba tháng thứ nhất, các ký lục của vua được triệu đến. Trên sắc lệnh có ghi tất cả những gì ông Ha-man đã chỉ thị để gửi đến các thủ hiến của nhà vua, các tổng đốc coi mỗi miền và các quan chức coi từng sắc dân, miền nào theo chữ viết của miền ấy, dân nào theo tiếng nói của dân ấy. Sắc lệnh được soạn thảo nhân danh vua A-suê-rô và niêm phong bằng bửu ấn nhà vua, rồi được trao cho các phu trạm mang đến tất cả các miền dưới quyền vua. Mục đích là thủ tiêu, giết chết, tru diệt mọi người Do-thái từ trẻ đến già, cả thiếu nhi lẫn phụ nữ, nội trong một ngày, ngày mười ba tháng thứ mười hai, tức là tháng A-đa. Ngoài ra, sắc lệnh còn cho phép cướp của nữa.

Sau đây là bản sao sắc lệnh trên:

“Đại vương A-suê-rô viết như sau cho các tổng đốc của một trăm hai mươi bảy miền từ Ấn-độ đến Ê-thi-óp, và cho các quan chức dưới quyền:

Cai quản muôn dân nước, làm bá chủ toàn cõi địa cầu, ta không muốn say men quyền bính mà sinh thói kiêu căng, nhưng muốn luôn lãnh đạo sao cho khoan dung hiền hoà, không ngừng bảo đảm cho toàn dân một cuộc sống yên ổn, giúp cho vương quốc được thái bình thịnh vượng, ai nấy dễ dàng đi lại cho đến tận biên thuỳ, để phục hồi cảnh an hoà mọi người hằng mong ước. Để tìm cách thực hiện dự kiến trên, ta đã bàn hỏi các vị cố vấn. Trong số đó, quan Ha-man giữa chúng ta là một nhân vật khôn ngoan xuất chúng, đã tỏ ra luôn thành tâm thiện chí và hết dạ tín trung, nên trong vương quốc, đã lên tới địa vị thứ nhì. Ông đã cho ta thấy rằng có một dân đầy ác ý, sống trà trộn với trăm họ trên toàn cõi địa cầu, theo những luật lệ đối nghịch hẳn với các nước khác, chẳng hề đếm xỉa đến sắc dụ của các vua, khiến cho vương quốc không thể đạt tới sự thống nhất, vương quốc mà ta vẫn điều khiển một cách hoàn hảo, không ai chê trách được.

Vậy, ta khẳng định rằng đây là lũ dân lập dị, luôn chống đối mọi người, có nếp sống khác biệt vì tuân hành thứ luật pháp xa lạ, phạm những tội ác tày trời chống lại quyền lợi của ta, với ý đồ gây bất ổn cho vương quốc.

Do đó, ta truyền rằng: ngày mười bốn tháng thứ mười hai, tức là tháng A-đa năm nay, phải tận diệt tất cả những kẻ được đề cập trong văn thư của quan Ha-man, người đã được ta bổ nhiệm làm phụ chính lo việc triều đình cho ta. Phải lấy gươm của địch thù chúng mà tận diệt chúng cùng với vợ con, không nương tay, không thương xót. Như thế, nội trong một ngày, những kẻ xưa nay vốn đầy ác ý đều bị tống xuống âm phủ, để từ đây, việc triều chính được mãi mãi ổn định và êm xuôi.”

Sắc chỉ này đã được công bố và có hiệu lực luật pháp cho mọi miền. Bản sao cũng đã được phổ biến, để vào ngày ấn định, mọi dân sẵn sàng tuân theo. Theo lệnh vua, phu trạm tức tốc lên đường. Sắc chỉ được công bố tại thành Su-san.

Trong khi vua cùng quan Ha-man ngồi chè chén say sưa, thì cả thành Su-san đều xôn xao náo động.

 

Ngày 125 – Hoàng hậu Ét-te đẩy lui hiểm hoạ

Ét-te 4,1-17

Khi biết tất cả những sự kiện trên, ông Moóc-đo-khai xé áo mình ra, mặc lấy bao bị và rắc tro lên người. Ông ra giữa thành, lớn tiếng thốt lên những lời đắng cay chua xót. Ông đến tận trước cung môn là nơi không ai được phép vào mà lại mặc bao bị. Trong mỗi miền, bất cứ nơi đâu mệnh lệnh và chỉ dụ của vua được chuyển tới, người ta cũng đều chứng kiến một cảnh thê lương buồn thảm: dân Do-thái ăn chay, khóc lóc, than van. Nhiều người nằm trên tro trên đất, mình mặc bao bị.

Các cung nữ và thái giám báo tin cho hoàng hậu Ét-te. Bà hết sức bàng hoàng. Bà gửi áo ra cho ông Moóc-đo-khai mặc và xin ông cởi bỏ bao bị. Ông không chịu nghe. Bà mới cho gọi ông Ha-thác là một trong những viên thái giám nhà vua đặt làm người phục vụ bà. Bà truyền cho ông đi gặp ông Moóc-đo-khai để biết sự việc đã xảy ra và lý do của sự việc đó.

Ông Ha-thác ra gặp ông Moóc-đo-khai tại quảng trường đối diện với cung môn. Ông Moóc-đo-khai cho ông biết tất cả những sự việc đã xảy ra và biết chuyện ông Ha-man đã hứa sẽ cân một số bạc bỏ vào kho của vua nhằm tru diệt người Do-thái. Ông Moóc-đo-khai trao cho ông bản sao sắc chỉ đã công bố ở Su-san nhằm huỷ diệt họ, mục đích là cho bà Ét-te xem bản sao đó và biết các sự việc. Ông Moóc-đo-khai cũng nhắn bà phải vào chầu vua để xin vua tỏ lòng nhân hậu và khẩn nài vua thương xót dân tộc bà. Ông nhắn rằng: “Con hãy nhớ lại thuở hàn vi của con, những ngày con đã được chính tay cha nuôi dưỡng. Người chiếm địa vị thứ nhì trong vương quốc là Ha-man đã đề nghị vua chống lại chúng ta, nhằm dẫn chúng ta đến chỗ chết. Con hãy cầu khẩn Chúa và xin vua thương tình tha chết cho chúng ta.”

Ông Ha-thác trở vào, chuyển những lời này đến hoàng hậu Ét-te. Bà ngỏ lời với ông Ha-thác, truyền cho ông ra gặp ông Moóc-đo-khai và nói: “Bề tôi của vua và dân các miền thuộc quyền vua, ai cũng biết rõ: bất cứ người nào, nam cũng như nữ, không được triệu vời mà dám vào chầu vua ở phía trong sân rồng, thì đều chịu một luật duy nhất là phải chết, trừ phi vua giơ phủ việt vàng ra, người ấy mới được sống. Mà con đây đã ba mươi ngày rồi không được triệu vào chầu vua.”

Người ta cho ông Moóc-đo-khai biết những điều bà Ét-te đã nói. Ông nhờ người trả lời: “Đừng tưởng rằng trong cả dân Do-thái, chỉ có mình con ở tại hoàng cung là được thoát nạn. Vì đến lúc này mà con vẫn cứ ngậm miệng làm thinh, thì người Do-thái sẽ nhận được sự trợ giúp và giải cứu từ một nơi khác ; còn chính con và nhà cha con lại bị tru diệt. Biết đâu không phải vì thời buổi như thế này mà con đã lên tới địa vị hoàng hậu?”

Bà Ét-te nhờ người trả lời ông Moóc-đo-khai: “Xin cha cứ đi tập hợp tất cả những người Do-thái ở Su-san lại. Xin bà con ăn chay cầu nguyện cho con. Suốt ba ngày đêm, đừng ăn uống gì cả. Con và các cung nữ cũng sẽ làm như thế. Sau đó, dầu pháp luật không cho phép, con cũng vào chầu vua. Có chết con cũng đành.” Ông Moóc-đo-khai rút lui và làm theo mọi điều hoàng hậu Ét-te dặn.

 

Ngày 126 – Hoàng hậu Ét-te vào chầu vua

Ét-te 5,1-14

Ngày thứ ba x, cầu nguyện xong, hoàng hậu Ét-te bỏ áo cầu nguyện, mặc phẩm phục huy hoàng y. Đẹp lộng lẫy, bà cầu khẩn Thiên Chúa là Đấng thấu suốt và cứu độ mọi người. Rồi bà đem theo hai cung nữ: bà tựa vào một cô, trông thật thướt tha duyên dáng ; còn cô kia theo sau, nâng đuôi áo cho bà. Bà hết sức xinh đẹp, đôi má tươi hồng, vẻ mặt hớn hở, dễ thương, nhưng lòng đau như thắt vì khiếp sợ. Qua các cửa, bà đến trước mặt vua. Vua ngự trên ngai báu, mang trọn bộ long bào dùng trong những buổi triều yết, mình đầy vàng bạc châu báu, dáng vẻ rất đáng sợ. Vua ngẩng mặt lên nhìn, đôi mắt rực sáng, giận dữ đến cực độ. Hoàng hậu khuỵu xuống, tái mặt đi vì yếu sức ; bà dựa đầu vào cô cung nữ đi trước. Thiên Chúa làm cho vua đổi lòng, khiến vua ra dịu hiền. Từ trên ngai vàng, vua lo âu lao mình xuống, đưa cánh tay đỡ lấy bà cho đến khi bà tỉnh lại. Rồi vua lấy lời trấn an khích lệ bà: “Sao thế, Ét-te? Ta là anh của em mà! Yên tâm đi! Em không phải chết đâu! Lệnh của ta chỉ áp dụng cho thường dân thôi. Lại đây em!” Vua đưa phủ việt vàng lên đặt vào cổ bà, rồi ôm hôn bà và nói: “Hãy nói cho ta hay!” Bà nói với vua: “Tâu chúa thượng, thiếp nhìn thấy ngài giống như thiên sứ của Thiên Chúa. Tâm hồn thiếp bị rúng động vì khiếp sợ vẻ oai nghi của ngài. Quả thế, tâu chúa thượng, ngài thật kỳ diệu và long nhan ngài thật hấp dẫn!” Đang nói thế bà lại khuỵu xuống. Vua bị rúng động, còn các cận thần thì tìm cách làm cho bà tỉnh lại. Vua nói với bà: “Hoàng hậu Ét-te, chuyện gì thế? Khanh muốn xin gì? Dù nửa nước ta cũng sẽ ban!” Bà Ét-te đáp: “Nếu đẹp lòng đức vua, thì hôm nay, xin đức vua cùng quan Ha-man đến dự yến tiệc thiếp đã dọn hầu đức vua.” Vua liền nói: “Hãy mau mau triệu Ha-man đến để làm như Ét-te vừa nói.” Vua đã cùng quan Ha-man đến dự yến tiệc bà Ét-te dọn. Giữa tiệc rượu, vua lại nói với bà Ét-te: “Khanh thỉnh cầu gì, ta sẽ ban cho. Khanh muốn xin gì, dù nửa nước cũng sẽ được.” Bà Ét-te đáp: “Điều thiếp thỉnh cầu, điều thiếp muốn xin… Nếu thiếp được đức vua thương đến, nếu đức vua vui lòng ban điều thiếp muốn xin và thực hiện điều thiếp thỉnh cầu, thì ngày mai xin đức vua cùng quan Ha-man lại tới dự yến tiệc thiếp sẽ dọn hầu các ngài. Rồi thiếp sẽ tuân theo lời đức vua phán dạy.”

Hôm ấy, Ha-man vui vẻ ra về, lòng phơi phới hân hoan. Nhưng khi thấy ông Moóc-đo-khai ở cung môn không buồn đứng dậy cũng chẳng thèm nhúc nhích, y hết sức căm giận ông. Ha-man dằn lòng trở về nhà, sai người đi mời bạn hữu và vợ là De-rết đến. Y kể cho họ nghe nào là y giàu có vinh hiển, nào là con cái đông đúc, nào là bao nhiêu việc vua đã làm để đề cao y và cất nhắc y lên trên hàng khanh tướng quần thần của nhà vua. Y nói: “Hơn nữa, ngoài tôi ra, hoàng hậu Ét-te đã chẳng mời ai khác cùng đức vua đến dự yến tiệc của bà. Ngày mai, bà lại mời tôi với đức vua lần nữa. Nhưng tất cả những điều đó chưa làm tôi thoả mãn, bao lâu tôi còn thấy tên Do-thái Moóc-đo-khai ngồi tại cung môn.” De-rết, vợ y, và tất cả các bạn hữu của y đều nói: “Ngài cứ cho dựng một cái giá cao hai mươi lăm thước, rồi sáng mai xin đức vua cho treo cổ tên Moóc-đo-khai lên. Sau đó, ngài sẽ vui vẻ theo đức vua vào dự tiệc.” Ha-man ưng thuận đề nghị đó và cho dựng giá treo cổ.

 

Ngày 127 – Ha-man thất bại 

Ét-te 6,1-7,10

Chính đêm ấy, vua mất ngủ. Vua mới truyền đem tập Kỷ Yếu, sách Sử biên niên của hoàng triều ra đọc trước mặt vua. Trong sách có chép rằng: ông Moóc-đo-khai tố cáo hai viên thái giám gác cửa hoàng cung là Bi-gơ-than và Te-rét đã tìm cách tra tay hại vua A-suê-rô. Bấy giờ vua nói: “Đã làm gì để tuyên dương và đề cao Moóc-đo-khai vì công trạng đó chưa?” Gia nhân tâu lại: “Thưa đức vua, chưa làm gì cho ông ấy cả v.” Vua nói: “Ai ở ngoài sân đó?” Lúc ấy, Ha-man vừa đến sân ngoài của hoàng cung để xin vua cho treo cổ ông Moóc-đo-khai lên giá đã dọn sẵn cho ông. Gia nhân liền thưa: “Có quan Ha-man đang đứng ngoài sân.” Vua nói: “Cho phép quan ấy vào.” Ha-man vào. Vua hỏi: “Nhà vua muốn tuyên dương một người thì nên làm gì cho người đó?” Ha-man tự nhủ: “Ngoài ta ra, nào đức vua còn muốn tuyên dương ai được nữa?” Nên Ha-man mới tâu vua: “Đức vua muốn tuyên dương ai, thì ngày lễ gia miện, đức vua đã mặc long bào x nào, đã cỡi con ngựa nào, nay xin đem trao cho một trong các vị cao cấp nhất y của đức vua, để vị này mặc long bào ấy cho người đức vua muốn tuyên dương, rồi đặt người đó lên cỡi con ngựa ấy mà đem đi dạo trong quảng trường của thành phố. Vị này sẽ đi trước người đó và hô to: ‘Đây là cách đức vua đãi ngộ người đức vua muốn tuyên dương.’” Vua liền nói: “Khanh mau lấy long bào và ngựa như vừa nói, và làm như vậy cho ông Moóc-đo-khai, người Do-thái. Tất cả các điều khanh vừa nói, đừng bỏ sót một chi tiết nào.”

Ha-man lấy long bào mặc cho ông Moóc-đo-khai, đem ngựa ra cho ông cỡi, rồi vừa dẫn đi trong quảng trường của thành phố, vừa hô to trước mặt ông: “Đây là cách đức vua đãi ngộ người đức vua muốn tuyên dương.” Ông Moóc-đo-khai trở về cung môn ; còn Ha-man thì tức tốc chạy về nhà, lòng buồn bã, đầu trùm khăn. Ha-man thuật lại cho vợ là De-rết và cho mọi bạn hữu nghe tất cả những gì đã xảy ra. Các bạn hữu khôn ngoan đó và De-rết vợ y mới nói: “Nếu Moóc-đo-khai thuộc dòng giống Do-thái thì trước mặt hắn, ngài chỉ mới bắt đầu tuột dốc đó thôi. Ngài sẽ không thắng được hắn đâu. Trước mặt hắn, ngài sẽ tuột dốc thê thảm.”

Câu chuyện còn dang dở thì các thái giám của vua đến. Họ vội vàng triệu Ha-man tới dự yến tiệc bà Ét-te đã dọn.

Vua và Ha-man đến dự yến tiệc với hoàng hậu Ét-te. Ngày thứ hai này, giữa tiệc rượu, vua cũng lại nói với bà Ét-te: “Hoàng hậu Ét-te, khanh thỉnh cầu gì, ta sẽ ban. Khanh xin gì, dù nửa nước, ta cũng sẽ ban cho.” Hoàng hậu Ét-te đáp: “Nếu thiếp được đức vua thương chiếu cố và nếu đẹp lòng đức vua, thì xin nhận lời thiếp khẩn cầu mà cho thiếp được sống, xin nghe lời thiếp nài van mà cho dân thiếp được sống, vì thiếp và dân của thiếp đã bị bán đứng cho người ta triệt hạ, giết chết, tru diệt. Giả như bề tôi đây có bị bán làm tôi trai tớ gái người ta, thiếp sẽ chẳng nói gì ; nhưng đối phương sau này không thể bù đắp được thiệt hại mà đức vua sẽ phải chịu.” Vua A-suê-rô ngỏ lời với hoàng hậu Ét-te: “Tên đó là ai? Kẻ cả gan hành động như thế hiện đang ở đâu?” Bà Ét-te thưa: “Đối phương ấy, địch thù ấy, chính là tên Ha-man khốn nạn này đây!” Trước mặt vua và hoàng hậu, Ha-man kinh hoàng sợ hãi. Vua bừng bừng nổi giận, đứng lên, bỏ tiệc rượu, đi ra ngự uyển. Còn Ha-man thì ở lại nài xin hoàng hậu Ét-te cứu sống mình, vì y quá hiểu: thảm hoạ sẽ xảy đến cho y, vua đã quyết định rồi.

Khi vua từ ngự uyển trở lại phòng tiệc rượu thì Ha-man đã nằm vật xuống giường, bên cạnh bà Ét-te. Vua nói: “Lại còn tính xâm phạm đến cả hoàng hậu tại hoàng cung, ngay khi ta có mặt hay sao?” Vua vừa nói xong, người ta liền lấy khăn che mặt Ha-man lại. Một trong các thái giám là ông Khác-vô-na nói trước mặt vua: “Kìa, sẵn có cái giá Ha-man dựng lên để treo cổ ông Moóc-đo-khai. Chính nhờ lời báo cáo của ông này mà đức vua đã thoát nạn. Cái giá đó cao hai mươi lăm thước, dựng ngay tại nhà Ha-man.” Vua liền nói: “Treo cổ y lên đó!” Ha-man bị treo cổ lên cái giá dành sẵn cho ông Moóc-đo-khai. Thế là nhà vua hả giận.

 

Ngày 128 – Những đau khổ của Gióp

Gióp 1,1-22

Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Đông. Các con trai ông có thói quen luân phiên tới nhà nhau tiệc tùng và cho người đi mời ba cô em gái đến ăn uống với họ. Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông Gióp cho gọi họ đến để thanh tẩy họ ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: “Biết đâu các con trai ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng!” Lần nào ông Gióp cũng làm như thế.

Vậy một ngày kia, các con cái Thiên Chúa đến trình diện ĐỨC CHÚA ; Xa-tan cũng đến trong đám họ. Bấy giờ ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Ngươi từ đâu tới?” Xa-tan thưa với ĐỨC CHÚA: “Rảo quanh cõi đất và lang thang khắp đó đây.” ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Ngươi có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta không? Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác!” Nhưng Xa-tan thưa lại với ĐỨC CHÚA: “Có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa mà không cầu lợi chăng? Chẳng phải chính Ngài đã bao bọc, chở che nó tư bề, nó cũng như nhà cửa và tài sản của nó sao? Ngài đã ban phúc lành cho công việc do tay nó làm, và các đàn súc vật của nó lan tràn khắp xứ. Ngài cứ thử giơ tay đánh vào mọi tài sản của nó xem, chắc chắn là nó nguyền rủa Ngài thẳng mặt!” ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Được, mọi tài sản của nó thuộc quyền ngươi, duy chỉ có con người của nó là ngươi không được đưa tay đụng tới.” Rồi Xa-tan rút lui khỏi nhan ĐỨC CHÚA.

Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: “Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy ; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.” Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: “Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.” Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: “Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà ; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.” Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa: “Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà ; nhà sập xuống đè trên đám trẻ ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.”

Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói:

“Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ v,

tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng.

ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi:

xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA x!”

Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.

 

Ngày 129 – Xa-tan thử thách ông Gióp

Gióp 2,1-13

Một ngày kia y, con cái Thiên Chúa đến trình diện ĐỨC CHÚA ; Xa-tan cũng đến trong đám họ, để trình diện ĐỨC CHÚA. Bấy giờ, ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Ngươi từ đâu tới?” Xa-tan thưa với ĐỨC CHÚA: “Rảo quanh cõi đất và lang thang khắp đó đây.” ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Ngươi có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta không? Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác! Nó vẫn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của nó, dù ngươi đã vô cớ xúi giục Ta chống lại, để tiêu diệt nó.” Và Xa-tan thưa lại với ĐỨC CHÚA: “Da đổi da! Tất cả những gì người ta có, người ta đều sẵn sàng cho đi để cứu mạng sống mình. Ngài cứ thử giơ tay đánh vào xương vào thịt nó xem, chắc chắn là nó sẽ nguyền rủa Ngài thẳng mặt!” ĐỨC CHÚA phán với Xa-tan: “Được, nó thuộc quyền ngươi, nhưng ngươi phải tôn trọng mạng sống nó.” Rồi Xa-tan rút lui khỏi nhan ĐỨC CHÚA.

Vậy Xa-tan hành hạ ông Gióp, khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu.Ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi. Bấy giờ, vợ ông bảo: “Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!” Nhưng ông Gióp đáp lại: “Cả bà cũng nói như một mụ điên. Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không để cho môi miệng thốt ra lời tội lỗi.

Ba người bạn của ông Gióp nghe biết tất cả những tai hoạ xảy ra cho ông, liền kéo đến, mỗi người từ xứ sở của mình, Ê-li-phát người Tê-man, Bin-đát người Su-ác, Xô-pha người Na-a-mát. Họ bàn nhau đến để chia buồn và an ủi ông. Từ xa, họ ngước mắt nhìn, nhưng chẳng nhận ra ông. Họ bật khóc ; mỗi người xé áo mình ra và rắc tro lên đầu. Rồi họ ngồi xuống đất, bên cạnh ông, suốt bảy ngày đêm, chẳng nói với ông một lời, vì họ thấy rằng nỗi đau khổ của ông quá lớn.

 

Ngày 130 – Công trình sáng tạo của Đức Khôn Ngoan

Gióp 38,1-41

Bấy giờ, giữa cơn bão táp, ĐỨC CHÚA lên tiếng trả lời ông Gióp như sau:

Ai là kẻ dám dùng những lời thiếu khôn ngoan hiểu biết,

để làm cho kế hoạch của Ta ra tối tăm khó hiểu?

Như dũng sĩ, hãy thắt chặt đai lưng,

Ta sẽ tra hỏi ngươi và ngươi hãy trả lời.

Ngươi ở đâu khi Ta đặt nền móng cho đất?

Nếu ngươi thông hiểu thì cứ nói đi!

Ai đã định kích thước cho đất,

ai đã chăng dây đo, ngươi biết mà!

Đế của nó, lấy chi làm điểm tựa, đá góc của nó, ai đã đặt cho,

khi các vì sao ban sáng đang hoà tấu nhịp nhàng

và hết mọi con cái Thiên Chúa cùng rập tiếng tung hô?

Cửa đại dương v, ai ra tay khép lại

khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,

khi Ta giăng mây làm áo nó mặc,

phủ sương mù làm tã che thân?

Đường ranh giới x của nó, chính Ta vạch sẵn,

lại đặt vào nơi cửa đóng then cài ;

rồi Ta phán: “Ngươi chỉ tới đây thôi,

chứ không được tiến xa hơn nữa,

đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!”

Trong cả đời ngươi, đã có lần nào

ngươi từng ra lệnh cho buổi sáng y,

chỉ định vị trí cho hừng đông,

để hừng đông nắm chắc mười phương đất,

giũ cho sạch hết bọn gian tà?

Bấy giờ, đất thay màu đổi sắc

tựa màu đất sét dùng làm ấn niêm phong,

và muôn loài xuất hiện tựa tấm áo lộng lẫy huy hoàng.

Nhưng ác nhân thấy mình mất đi ánh sáng,

cánh tay từng tung hoành, nay bị bẻ gãy.

Có bao giờ ngươi đã đến tận nguồn biển cả

và lang thang ở đáy vực sâu?

Có ai từng mở cho ngươi lối vào âm phủ

và ngươi thấy được cửa dẫn tới âm ty?

Có khi nào ngươi hiểu mặt đất rộng chừng nào?

Nếu ngươi biết hết mọi điều đó thì cứ nói đi!

Con đường nào dẫn đến nơi ở của ánh sáng,

đâu là nơi bóng tối cư ngụ,

để ngươi đưa nó đến miền nó ở,

và nhận ra đường về nhà nó?

Điều này, hẳn ngươi biết rõ,

vì khi ấy, ngươi đã chào đời,

và đời ngươi đã qua bao năm tháng!

Có bao giờ ngươi vào kho chứa tuyết,

hay đã thấy kho mưa đá ở đâu?

Những thứ đó, Ta để dành cho thời khốn quẫn,

cho những ngày loạn lạc chiến tranh.

Ánh sáng toả ra theo hướng nào,

trên mặt đất, gió đông thổi về đâu?

Ai đã xẻ mương cho nước lũ, vạch đường cho sấm chớp,

khiến mưa rơi xuống miền đất không người,

xuống sa mạc không một ai ẩn náu,

làm ướt đẫm nơi khô cháy tiêu điều,

khiến cỏ xanh mọc lên tươi tốt?

Thử hỏi mưa có cha không,

những giọt sương mai, ai đã sinh ra chúng?

Băng đá phát sinh từ bụng dạ nào?

Sương muối trên trời, ai đã sinh ra,

khi nước đông lại như đá tảng

và mặt vực thẳm trở nên rắn chắc?

Liệu ngươi có cột được chòm Sao Mão,

có mở được dây Lạp Hộ hay chăng?

Liệu ngươi có làm được cho chòm sao Tất 

mọc đúng thời đúng buổi,

có dẫn được Hùng Tinh cùng bầy con của nó?

Liệu ngươi có biết được quy luật của trời,

có ấn định được ảnh hưởng của trời đối với đất?

Liệu tiếng ngươi có vọng thấu tầng mây,

khiến trên ngươi cả khối nước trời đổ xuống?

Liệu ngươi ra lệnh, chớp có phóng đi,

và nói với ngươi: “Chúng em có mặt!”

Ai làm cho cò lửa khôn ngoan,

ai ban trí tuệ cho gà trống?

Ai đủ khôn ngoan để đếm mây trời,

ai nghiêng cho vò nước trời đổ xuống,

khiến cho bụi đất quyện thành bùn

và các tảng đất cùng dính lại?

Liệu ngươi có săn được mồi cho sư tử cái,

có làm dịu được cơn đói của sư tử con,

khi chúng thu mình lại trong hang

hay nằm mai phục trong rừng vắng?

Ai cung cấp thức ăn cho loài quạ,

khi đám quạ con kêu lên Thiên Chúa 

và lang thang đây đó vì thiếu của ăn?