12 Thánh Tử Đạo Bắc Ninh: Năm Vị Thánh Cùng Chịu Tử Đạo ngày 19 tháng 12 năm 1839
3.THÁNH PHANXICÔ XAVIE HÀ TRỌNG MẬU
THẦY GIẢNG (1790 – 1839)
THÁNH PHANXICÔ XAVIE HÀ TRỌNG MẬU (pdf)
Phanxicô Xavie Hà Trọng Mậu sinh năm 1790 tại làng Kẻ Diền (Nay thuộc Giáo xứ Duyên Lãng, xã Minh Hòa, huyện Hưng Hòa, tỉnh Thái Bình, Giáo phận Thái Bình). Cậu được cha mẹ cho đi tu, trở thành thầy giảng và đi giúp nhiều giáo xứ. Khi cha Phêrô Tự bị bắt, thầy Mậu đang coi họ Nội, thuộc xứ Kẻ Mốt (Giáo phận Bắc Ninh). Được tin cha và thầy Úy bị đưa về huyện Lương Tài, thầy liền đến đó nghe ngóng tin tức. Giáo hữu gửi thầy trọ ở nhà một người lương dân phía bên kia sông, vì nghĩ rằng lính sẽ không khám xét đến. Ai ngờ, chính người chủ nhà đi báo cho quan để kiếm tiền thưởng và thầy bị bắt.
Thầy bị dẫn đến dinh quan huyện Lương Tài, có mặt cha Tự ở đó. Quan hỏi thầy là ai, thầy đáp: “Thưa quan, tôi là một môn đệ thân tín của cha đây”. Cha Tự ra dấu nhắc thầy đừng khai rõ, may ra có thể chuộc về được chăng, nhưng thầy nói nhỏ với cha: “Xin cha thương nhận con là môn sinh, để con cũng được tử đạo với cha.”
Kể từ ngày cha Tự và ông trùm Cảnh bị đem đi xử trảm, thầy Mậu trở thành cột trụ nâng đỡ bốn người còn lại, là thầy Úy và các anh: Mới, Vinh và Đệ. Thầy nhắc anh em sống huynh đệ, an ủi giúp đỡ nhau. Thầy đại diện anh em viết thư ra ngoài, hoặc trả lời với các quan. Đặc biệt thầy động viên anh em hăng hái làm việc tông đồ ngay trong nhà tù. Trong hồ sơ phong thánh, cha Huấn đã dựa vào các thư của thầy làm chứng rằng: “Thầy Mậu vẫn dạy giáo lý cho các tù nhân, và rửa tội được bốn mươi bốn người. Trong đó có một tử tội tên Hưng mới học đạo một tháng thì đến ngày xử, anh xin quan hoãn lại ít giờ để rửa tội, sau đó vui vẻ tiến ra pháp trường…”.
Ngày 5.9.1838, khi biết tin cha Phêrô Tự và ông trùm Cảnh đã bị chém tại pháp trường Cổ Mễ, năm vị trong ngục buồn bã nhớ thương. Thầy Mậu kêu gọi anh em ngồi lại bên nhau cùng đọc kinh, vừa khích lệ nhau, vừa ôn lại những lời khuyên của cha mình. Sau đó ba buổi tối, như chính các vị thuật lại, trong lúc họ đang cầu nguyện, thì bất ngờ tất cả đều thấy như cha Tự hiện ra ngay bên an ủi họ: “Các con đừng buồn, chắc chắn các con sẽ còn được chết vì đạo. Tuy nhiên, các con sẽ còn phải qua một thời gian thử thách nữa, để xứng đáng với phúc trọng này.” Có thể đó chỉ là giấc mơ chứ không phải sự thật, cũng có thể đó là lời nhắn nhủ cuối cùng của vị Linh mục. Kể từ ngày đó họ hết sầu buồn, tìm lại được can đảm để nêu gương ngay trong cảnh quẫn bách ở trong trại giam.
Ngày 19.8.1839 quan cho điệu thầy Mậu và tất cả anh em ra tòa, vẫn để Thánh Giá một bên, bên kia là hình cụ tra tấn. Quan nói: “Các anh bị giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta tha về với vợ con.” Thầy Mậu Đại diện anh em trả lời: “Chúng tôi đã quyết tâm trung thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu hay giết cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng.” Rồi cả năm vị quỳ xuống bái lạy Thánh Giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con, con xin phó thác hồn con trong tay Chúa.” Thất vọng, quan cho lính đưa tất cả về ngục và thốt lên: “Bọn này không thể tha thứ được, mà chúng có thèm được tha đâu.”
Ngày 24.11.1839, năm vị phải ra toà một lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và các tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết không chối đạo. Thầy Mậu thay mặt anh em nói với quan: “Chúng tôi chỉ tôn thờ một Thiên Chúa là Cha chung muôn loài, là Vua trên hết các vua, là Đấng chúng tôi mong được đổ máu ra để chứng tỏ lòng trung thành và yêu mến”.
Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ hội cuối cùng. Ông nói: “Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng tha.” Sau ông lại nói: “Chỉ cần đi vòng quanh tượng ta cũng tha.” Nhưng các vị chứng nhân đức tin bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu. Thầy Mậu nói với quan những lời Kinh Thánh vịnh 41,1-2: “Thưa quan, chúng tôi ước mong về với Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy; xin quan cứ thi hành án lệnh của nhà vua”.
Trên đường ra pháp trường, thầy Mậu rảo chân bước đi trước, các anh khác bước theo sau, tất cả đều tỏ ra hân hoan kiên cường. Dân chúng hiếu kỳ đi xem rất đông và xì xào với nhau là các vị này bị giết oan. Theo gương thầy Mậu, các chứng nhân tươi cười với mọi ngườỉ: “Anh em chúng tôi đang tiến về thiên đàng đây.” Khi tới pháp trường Cổ Mễ, (Bắc Ninh), mỗi vị bị trói vào một cọc đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lý hình xiết cổ các vị bằng giây thừng cho đến lúc tắt thở. Thi thể Thầy Mậu đã được các tín hữu rước về mai táng tại nhà thờ Kẻ La (Giáo phận Bắc Ninh).
Ngày 27.5.1900 Đức Lêo XIII đã tôn phong vị tôi tớ Chúa: Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu lên bậc Chân Phước, và ngày 19.6.1988, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
4.THÁNH ĐAMINH BÙI VĂN ÚY
THẦY GIẢNG (1812 – 1839)
THÁNH ĐAMINH BÙI VĂN ÚY (pdf)
Thầy Đaminh Bùi văn Úy sinh năm 1812 tại họ Tiền Môn, làng Kẻ Rèm, tỉnh Thái Bình (Nay thuộc xã Hồng Giang – huyện Đông Hưng – tỉnh Thái Bình, Giáo phận Thái Bình). Từ bé ngài đã được cha mẹ gửi vào nhà xứ sống với cha Tự. Sau khi học thành thầy giảng, thầy luôn hoạt động bên cha tại giáo xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh). Thầy Úy rất ngay thật không biết quanh co nói dối. Cha Tự rất quý mến Thầy, nên luôn cho thầy đi theo. Ai ai cũng khen thầy có tính nết hiền lành chịu khó. Thầy một lòng trung thành với Cha Tự. Trong thời gian cấm đạo, thầy luôn ở bên cạnh cha để giúp đỡ cha. Khi làm hầm trú ẩn, thầy bắt người ta phải làm hầm hai tầng, thầy ở tầng gần cửa để nếu quan quân có đến bắt thì chúng sẽ bắt thầy trước và Cha Tự có thời giờ chạy thoát. Thầy thường nói với các giáo dân: “Nếu quan đến bắt tôi thay vì bắt cụ thì tôi bằng lòng chịu thay, tôi sẽ lặng yên để cứu cụ, tôi chỉ lo các sự khốn khó bổn đạo phải chịu về sau mà thôi”.
Thầy Úy chỉ sợ nếu con chiên mất chủ chiên thì nguy hiểm cho họ, nên cố lòng bảo vệ Cha Tự. Tuy nhiên thánh ý Chúa nhiệm mầu đã không để thầy bị bắt thay cho cha, mà bị bắt cùng một lượt với cha. Lúc quan hạ lệnh đánh Cha Tự, Thầy Úy lại xin chịu đòn thay cho cha: “Thưa quan, cụ con không trốn, xin các quan đừng đánh người, có đánh thì xin đánh con”.
Sau khi các quan bắt thầy bước qua ảnh tượng mà thầy không chịu, họ liền cho quân lính áp giải cả hai cha con về tỉnh Bắc Ninh. Vì tính thầy quá thật thà lại còn trẻ trung, nên Cha Tự hết lòng lo lắng không biết thầy có bền vững xưng đạo ra không. Để thử thầy, Cha Tự bảo: “Con có muốn sống thì cụ sẽ liệu nói cách nhẹ cho con được sống”.
Thầy Úy hỏi lại cha xem cha sẽ nói thế nào. Cha Tự bảo rằng: “Cụ sẽ nói với các quan con là kẻ theo làm cơm cho cụ mà thôi”. Thầy Úy một mực xin Cha Tự cứ việc nói nặng cho thầy để thầy được chết với cha. Thấy Thầy Úy can đảm Cha Tự mừng lắm. Ngài nói với thầy: “Vậy cha sẽ nói con là thầy giảng đạo, như thế thì con sẽ được chết vì đạo”. Vừa nghe như vậy thầy Úy mừng rỡ vội vàng quỳ xuống xin Cha Tự ban phép giải tội để chuẩn bị chịu chết vì đạo.
Thầy Úy được như lòng mong ước sẵn sàng chịu chết vì đạo Chúa. Lúc này, quan truyền cho lính bắt thầy đeo gông rất nặng, chân tay bị xiềng xích rồi đem ra tra khảo. Quan lớn dùng đủ mọi mánh khóe, những lời ngọt ngào dụ dỗ thầy bỏ đạo, bày ra những hình cụ gớm ghê trước mặt để thầy khiếp sợ mà phải quá khóa. Tuy nhiên, những hình khổ này vẫn không làm sờn lòng thầy giảng kiên trung của Chúa. Chẳng những thầy không chịu quá khóa mà còn dám đối đáp lại với quan: “Bẩm lạy quan lớn, quan có dám bước qua mặt vua không mà bảo tôi bước qua mặt Chúa tôi?” Quan giận quá truyền đem chém, thầy lại hô lớn: “A! Các anh em ơi, tôi được chém đầu bây giờ!” Một lần khác quan muốn dùng áp lực tinh thần để đe dọa thầy. Quan nói: “Mày còn trẻ mà sao mày cứng đầu hơn thầy mày? Thầy mày đã bỏ đạo rồi, sao mày vẫn không chịu bỏ đạo?” Thầy Úy đáp lại: “Tôi không tin rằng thầy tôi bỏ đạo. Mà dù thầy tôi có bỏ đạo tôi cũng không bỏ đạo”. Thấy thầy đối đáp trôi chảy, lại còn trẻ, các quan ai cũng thương mến, muốn tìm đủ cách tha cho thầy. Một lần khác các quan lại điệu thầy ra tra khảo, lần này các quan ngon ngọt dụ dỗ thầy: “Thầy mày không chịu bỏ đạo đã đành, còn mày hãy còn trẻ đẹp, có tương lai, sao mày cứ nghe theo thầy mày hả? Thôi mày cứ bước qua câu rút đi thì ta tha về mà làm nghề thuốc kiếm ăn”.
Thầy Úy cảm động về lòng thương của các quan nên từ tốn đáp lại: “Tâu lạy vua, lạy ba quan lớn, từ khi con còn ở trong lòng mẹ sinh ra thì con được nhiều ơn Thiên Chúa phù hộ cho con, bây giờ con đã lớn lên, con chẳng dám bỏ Chúa con. Nếu con cả lòng bước qua câu rút, thì con mất lòng Chúa con, lại phạm đến cha mẹ sinh ra con, vì đã dạy dỗ con và bảo ban con giữ đạo hẳn hoi cho đến chết, lại làm cực lòng cho thầy con nữa, vì đã nuôi nấng và dạy dỗ con bấy lâu nay, để cho con biết làm việc thờ phượng kính mến Chúa con, nên con chẳng dám làm sự ấy”.
Quan lại bảo ngài: “Mày nói khéo lắm, song mày phải nghĩ, Chúa mày thì ở trên trời, mà ở đây chỉ có một mảnh gỗ thôi, mày cứ việc bước qua”.
Thầy Úy đáp lại: “Con xin quan lớn xét cho một lời thì con sẽ thưa, quả thật Chúa con ở trên trời, mà ở đây thật chỉ có một mảnh gỗ, song mảnh gỗ này là hình tượng Chúa con, thì con phải trọng kính. Thí dụ như cha mẹ con đã chết, mà linh hồn đã ở nơi khác rồi, ở dưới đất này chỉ còn xương thôi, nếu quan lớn truyền cho con đập xương cha mẹ con, có lẽ nào mà con dám làm thế. Con càng không dám vâng lời quan lớn bước qua câu rút, vì phạm đến Chúa đã dựng nên trời đất cùng mọi sự”. Quan lớn thất vọng vì không chiêu dụ được thầy, sau cùng tuyên bố nếu thầy không chịu thì sẽ bị chết. Thầy Úy chẳng sợ hãi, mà trái lại còn vui mừng thưa với quan: “Lạy quan lớn, con sẵn sàng chịu chết!”
Thầy lại bị đem vào ngục giam lại. Trong lao tù, thầy ăn chay hãm mình và xin gia nhập Dòng Ba Ðaminh. Thầy và thầy Mậu cùng nhau dạy rất nhiều tù nhân ngoại giáo. Nhiều tù nhân được ơn ăn năn trở lại, chịu phép rửa và vui vẻ chịu án hình mà vua xử họ. Sau nhiều lần khuyên dụ thầy bỏ đạo mà thầy vẫn không chịu, ngày 27.7.1838 các quan đề nghị bản án xử tử ngài: “Chúng tôi vâng nghĩ đạo Gia Tô là tà đạo, chỉ dối dá làm cho người ta nhầm mà ngỡ là đạo thật. Ðạo này làm mất các thói tục nhà nước, coi rẻ mọi sự dữ và mọi tai vạ, nên chúng tôi thiết nghĩ không nên để. Năm thứ 13 vua đã cấm đạo này, song các tây dương đạo trưởng còn lẩn quất ở nơi giáo dân và dạy dỗ người ta, chia các nơi làm nhiều xứ, và sai nhiều tín đồ cùng giao nhiều sách cho họ đi giảng đạo ấy nhiều nơi. Nhiều kẻ trong thứ dân dốt nát phải chước dối dá mà theo đạo ấy, mà chúng nó ngỡ là đạo thật, cứ một ngày một vững vàng. Dù làm thế nào chúng nó cũng không chịu bỏ đạo ấy. Dù phạt thế nào chúng nó cũng chẳng chịu tố các tây dương đạo trưởng ra, cứ giấu giếm mãi, cho nên hóa ra chúng nó giữ đạo ấy một ngày một vững bền. Chúng tôi thiết nghĩ phải phạt những kẻ ấy thẳng tay và đe cách nặng, để cho chúng nó biết mà chừa. Vậy theo lề luật nhà nước đã cấm, những kẻ tin theo thì phải phạt 100 trượng, phát lưu 3,000 dặm. Nay chúng tôi đã bắt được tên đạo trưởng Nguyễn Văn Tự và một người chứa nó là Hoàng Lương Cảnh, chúng tôi xin phạt hai tên làm đầu này như lề luật ấy, là phải xử giảo. Còn những đầy tớ nó là tên Mậu, tên Úy cũng theo trọn án với thầy mình, và tên Ðệ, tên Vinh, tên Mới là những kẻ làm dịp cho nhiều người theo đạo ấy thì phạt như lề luật là 100 trượng, cùng phát lưu ở tỉnh Bình Ðịnh, đi làm việc nhà nước”.
Khi vua nhận được sớ ấy, ông cho rằng những kẻ theo đạo Thiên Chúa còn tệ hại hơn những kẻ làm nghề phù thủy, nên truyền lệnh điều tra lại xem các đấng có bỏ đạo không, nếu không bỏ đạo thì phải xử giảo các ngài. Ðược lệnh vua, các quan lại điệu thầy và các bạn ra để tra khảo lần nữa. Lần này các ngài cũng bị bắt phải bước qua các ảnh tượng, các ngài vẫn không chịu. Các quan lại truyền giam các đấng ấy vào ngục như trước.
Ngày 5.9.1838, Cha Tự và ông trùm Cảnh bị trảm quyết. Ðợi hơn một năm sau, trải qua bao nhiêu lần khuyên dụ mà các ngài vẫn không thay dạ đổi lòng, bản án xử giảo các vị được vua phê chuẩn ngày 19.12.1839.
Ngày 19.8.1839 quan cho điệu tất cả ra tòa, vẫn để Thánh Giá một bên, bên kia là dụng cụ tra tấn. Quan nói: “Các anh bị giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta tha về với vợ con.” Thầy Mậu Đại diện anh em trả lời: “Chúng tôi đã quyết tâm trung thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu hay giết cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng.” Rồi cả năm vị quỳ xuống bái lạy Thánh Giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con, con xin phó thác hồn con trong tay Chúa.” Thất vọng, quan cho lính đưa tất cả về ngục và thốt lên: “Bọn này không thể tha thứ được, mà chúng có thèm được tha đâu.”
Ngày 24.11.1839, năm vị phải ra toà một lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và các tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết không chối đạo. Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ hội cuối cùng. Ông nói: “Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng tha.” Sau ông lại nói: “Chỉ cần đi vòng quanh tượng ta cũng tha.” Nhưng các vị chứng nhân đức tin không dễ bị mắc lừa, họ bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu.
Biết không thể làm nao núng ý chí sắt đá của những con người này được nữa, quan liền truyền đem đi xử với bản án: “Bọn gian ác theo Giatô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn sửa phạt, vẫn ngoan cố không chịu bước qua Thập Giá, nay chúng bị xử giảo”. Trên đường ra pháp trường, thầy Úy và tất cả anh em đều tỏ ra hân hoan kiên cường. Khi tới pháp trường Cổ Mễ, thầy Úy và mỗi vị bị trói vào một cọc đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lý hình xiết cổ các vị bằng giây thừng cho đến lúc tắt thở. Giáo hữu Đông Tiến đến rước xác thầy và mai táng trong nhà thờ họ ấy. Sau lại chuyển xác ngài về trại Khánh Khê, Ðến thời bình, dân lại cải táng ngài về chôn trong nhà thờ họ Ðông Tiến.
Ngày 27.5.1900 Đức Lêo XIII đã tôn phong vị tôi tớ Chúa: Đaminh Bùi văn Úy lên bậc Chân Phước, và ngày 19.6.1988, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
5. THÁNH TÔMA NGUYỄN VĂN ĐỆ
THỢ MAY, DÒNG BA ĐAMINH (1811 – 1839)
THÁNH TÔMA NGUYỄN VĂN ĐỆ (pdf)
Hai mươi tám tuổi đời, một người vợ ba người con, đó là mối ưu tư trắc trở của anh Tôma Đệ trong những ngày bị giam cầm. Không thể bỏ đức tin, nhưng tương lai của người vợ trẻ và đàn con dại sẽ ra sao? Trong nhiều ngày anh suy nghĩ và tha thiết cầu nguyện xin Chúa soi sáng. Cuối cùng anh tìm được bình an trong tâm hồn, phó thác tất cả trong bàn tay Chúa quan phòng. Anh nói với người vợ đến thăm: “Đừng khóc mình ạ. Mình về dạy dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phượng Chúa, tôi đã dâng mình và các con cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho tôi thêm sức mạnh để nhẫn nại đến cùng.”
Anh Tôma Đệ chào đời trong một gia đình Công giáo tại làng Bồ Trang (Nay thuộc Giáo họ Bái Đông, xứ Bồ Ngọc, xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Giáo phận Thái Bình) năm 1811. Vì lý do sinh kế, anh Tôma Nguyễn văn Đệ phải theo cha mẹ về xứ Kẻ Mốt (Giáo phận Bắc Ninh), và ở ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh Đệ theo nghề thợ may và được mọi người yêu quý. Anh rất nhiệt tình với việc trong xứ trong họ. Hầu hết cờ quạt, đồ trang hoàng trong nhà thờ và nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo léo và sáng tạo của anh. Khi kinh tế gia đình ổn định, anh lập gia đình, ra ở riêng và sinh hạ được ba người con.
Ngày 29.6.1838, quân lính vây làng Kẻ Mốt, và ép buộc mọi người trên 18 tuổi phải đạp lên Thánh Giá, anh Đệ lẩn trốn ra phía sau nhà. Đến khi quân lính xộc vào nhà lùng bắt, anh biết mình không thể tránh được nữa, liền giã từ vợ, dặn đưa con về bên ngoại, ôm hôn từng đứa rồi ra trình diện. Đến trước Thánh Giá, anh Đệ quỳ xuống cầu nguyện lớn rằng: “Lạy Chúa, sẽ không bao giờ con bước qua mặt Ngài.” Quân lính áp giải anh Tôma Đệ cùng với cha Tự, ông trùm Cảnh, hai thầy Úy, Mậu và các anh Mới và Vinh về giam tại Bắc Ninh.
Sau một tháng bị dọa nạt tra khảo, bảy chiến sĩ đức tin vẫn vững lòng. Ngày 27.7.1838, quan tỉnh Bắc Ninh đệ án vào triều xin xử giảo cha Tự và ông trùm Cảnh, còn năm vị kia quan cho là nhẹ dạ tin theo, nên xin đánh mỗi người một trăm roi rồi phát lưu vào Bình Định. Nhưng vua Minh Mệnh cho rằng tội theo đạo Giatô thuộc loại nặng, nên quyết định xử chém hai vị trên ngay tức khắc, còn tất cả sẽ bị xử giảo sau một năm nếu không chịu thay đổi ý kiến.
Ngày 5.9.1838, khi biết tin cha Phêrô Tự và ông trùm Cảnh đã bị chém tại pháp trường Cổ Mễ, năm vị trong ngục buồn bã nhớ thương. Thầy Mậu kêu gọi anh em ngồi lại bên nhau cùng đọc kinh, vừa khích lệ nhau, vừa ôn lại những lời khuyên của cha mình. Sau đó ba buổi tối, như chính các vị thuật lại, trong lúc họ đang cầu nguyện, thì bất ngờ tất cả đều thấy như cha Tự hiện ra ngay bên an ủi họ: “Các con đừng buồn, chắc chắn các con sẽ còn được chết vì đạo. Tuy nhiên, các con sẽ còn phải qua một thời gian thử thách nữa, để xứng đáng với phúc trọng này.” Có thể đó chỉ là giấc mơ chứ không phải sự thật, cũng có thể đó là lời nhắn nhủ cuối cùng của vị Linh mục. Kể từ ngày đó họ hết sầu buồn, tìm lại được can đảm để nêu gương ngay trong cảnh quẫn bách ở trong trại giam.
Ấn tượng ghi nét sâu đậm vào lòng năm vị chứng nhân là lời cha Tự trong ngày lãnh phúc tử đạo. Cha mặc áo dòng và nói với mọi người về chiếc áo đó. Trước đây bốn vị, đến khi vào tù có thêm anh Vinh, đã mặc áo dòng ba Thánh Đaminh, nhưng chưa có ai khấn cả. Thầy Mậu liền viết thư cho cha Huấn dòng Đaminh để bày tỏ niềm ước nguyện được hiệp thông với dòng cách trọn vẹn. Thầy viết: “Chúng con tất cả là năm tập sinh của dòng ba Đaminh, nhưng chúng con không thể giữ chay đủ các ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy được, nên chúng con xin cha thương rộng phép chuẩn chước cho sự thiếu sót đó. Qua thư này, chúng con xin tuyên khấn trọn đời. Vì chúng con không thể đọc lời tuyên khấn trong tay cha được, nên bằng những dòng viết này chúng con coi như thực sự tuyên khấn trước mặt cha vậy, xin cha cho phép.”
“Để tôn vinh và ngợi khen Thiên chúa toàn năng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng con là Phanxicô, Đaminh, Augustinô, Tôma và Stêphanô, trước mặt cha Huấn, Đại diện cha Hermosilla, Giám đốc dòng ba hãm mình Thánh Đaminh, chúng con xin hứa và ước ao giữ lề luật và tập tục của dòng cho đến chết.”
Những chữ “cho đến chết” trong ngục tù khi đó chắc hẳn phải có âm vang đặc biệt đối với các vị. Được nối kết với truyền thống hơn sáu trăm năm truyền giáo của Thánh Phụ và một dòng tu lớn trong Giáo hội, từ nay năm anh em tích cực hơn với việc tông đồ. Dưới sự điều hành của thầy Mậu, năm hội viên dòng ba chia nhau tiếp xúc gặp gỡ các bạn tù, giới thiệu với họ về Thiên Chúa, cắt nghĩa giáo lý, rồi dẫn họ đến thầy Mậu lãnh nhận Bí tích rửa tội. Ít ra các vị đã rửa tội được bốn mươi bốn người. Ngục tù giờ đây trở thành nguyện đường, hằng ngày vang lên những lời chúc tụng Thiên Chúa, lời cầu nguyện cho Giáo hội và cho mọi người, mọi giới được đầy tràn ơn lành của Ngài.
Thấm thoát hơn một năm đã trôi qua, triều đình quyết định lại việc xử giảo cả năm người. Ngày 19.8.1839 quan cho điệu tất cả ra tòa, vẫn để Thánh Giá một bên, bên kia là dụng cụ tra tấn. Quan nói: “Các anh bị giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta tha về với vợ con.” Thầy Mậu Đại diện anh em trả lời: “Chúng tôi đã quyết tâm trung thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu hay giết cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng.” Rồi cả năm vị quỳ xuống bái lạy Thánh Giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con, con xin phó thác hồn con trong tay Chúa.” Thất vọng, quan cho lính đưa tất cả về ngục và thốt lên: “Bọn này không thể tha thứ được, mà chúng có thèm được tha đâu.”
Ngày 24.11.1839, năm vị phải ra toà một lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và các tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết không chối đạo. Thầy Mậu thay mặt anh em nói với quan: “Chúng tôi chỉ tôn thờ một Thiên Chúa là Cha chung muôn loài, là Vua trên hết các vua, là Đấng chúng tôi mong được đổ máu ra để chứng tỏ lòng trung thành và yêu mến”.
Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ hội cuối cùng. Ông nói: “Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng tha.” Sau ông lại nói: “Chỉ cần đi vòng quanh tượng ta cũng tha.” Nhưng các vị chứng nhân đức tin bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu.
Biết không thể làm nao núng ý chí sắt đá của những con người này được nữa, quan liền truyền đem đi xử với bản án: “Bọn gian ác theo Giatô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn sửa phạt, vẫn ngoan cố không chịu bước qua Thập Giá, nay chúng bị xử giảo”. Trên đường ra pháp trường, anh Tôma Đệ và các bạn đều tỏ dấu rất hân hoan bước đi như trong ngày lễ hội. Khi tới pháp trường Cổ Mễ, Anh Đệ và mỗi vị đều bị trói vào một cọc đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lý hình xiết cổ các vị bằng giây thừng cho đến lúc tắt thở. Vị nhân chứng Đức tin Tôma Đệ, được các tín hữu cung kính rước thi hài về mai táng ở nhà thờ Phong Cốc, Giáo phận Bắc Ninh.
Ngày 27.5.1900 Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã phong vị tôi tớ Chúa: Tôma Nguyễn văn Đệ lên bậc Chân Phước, và ngày 19.6.1988 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
6. THÁNH AUGUSTINÔ NGUYỄN VĂN MỚI
GIÁO DÂN, DÒNG BA ĐAMINH (1806 – 1839)
THÁNH AUGUSTINÔ NGUYỄN VĂN MỚI (pdf)
Tuy là một tân tòng mới theo đạo, nhưng Thánh Augustinô Mới đã biểu lộ một đức tin kiên cường, không thua kém gì những Kitô hữu vững tin nhất.
Augustinô Nguyễn Văn Mới sinh năm 1806 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái Bình (Nay thuộc Giáo họ Bái Đông, xứ Bồ Ngọc, xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Giáo phận Thái Bình), trong một gia đình nông dân ngoại giáo. Đến tuổi trưởng thành, anh đến làng Đức Trai, xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) để làm thuê làm mướn. Tiếp xúc với giáo hữu ở đây, càng ngày càng thấy mến đạo, và anh xin theo học giáo lý. Năm 31 tuổi, anh được cha Phêrô Nguyễn Văn Tự rửa tội và đặt tên thánh bổn mạng là Augustinô. Mấy năm sau, cha Tự cũng chủ sự lễ thành hôn cho anh với một thiếu nữ trong xứ. Theo các lời chứng trong hồ sơ phong thánh, anh Augustinô Mới sống đạo rất tốt, đặc biệt là đọc kinh Mân Côi mỗi tối. Dù có ngày lao động vất vả đến khuya, anh cũng không quên kinh Mân Côi kính Đức Mẹ.
Ngày 29.6.1838, khi quân lính bao vây làng Kẻ Mốt và bắt cha Tự, họ buộc toàn dân phải ra đình làng điểm danh, rồi bước qua Thánh Giá. Một số tín hữu nhanh chân lẩn tránh được, một số nhát gan thực hiện lời yêu cầu của lính. Các anh Mới, Vinh và Đệ cương quyết không chịu đạp lên Thánh Giá, nên bị bắt và áp giải chung với cha Tự, ông trùm Cảnh và hai thầy Úy và Mậu lên giam tại Bắc Ninh.
Sau một tháng bị dọa nạt tra khảo, bảy chiến sĩ đức tin vẫn vững lòng. Ngày 27.7.1838, quan tỉnh Bắc Ninh đệ án vào triều xin xử giảo cha Tự và ông trùm Cảnh, còn năm vị kia quan cho là nhẹ dạ tin theo, nên xin đánh mỗi người một trăm roi rồi phát lưu vào Bình Định. Thế nhưng vua Minh Mệnh cho rằng tội theo đạo Giatô thuộc loại nặng, nên quyết định xử chém hai vị trên ngay tức khắc, còn tất cả sẽ bị xử giảo sau một năm nếu không chịu thay đổi ý kiến.
Thấm thoát hơn một năm đã trôi qua, ngày 19.8.1839 quan cho điệu tất cả ra tòa, vẫn để Thánh Giá một bên, bên kia là hình cụ tra tấn. Quan nói: “Các anh bị giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta tha về với vợ con.” Thầy Mậu Đại diện anh em trả lời: “Chúng tôi đã quyết tâm trung thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu hay giết cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng.” Rồi cả năm vị quỳ xuống bái lạy Thánh Giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con, con xin phó thác hồn con trong tay Chúa.” Thất vọng, quan cho lính đưa tất cả về ngục và thốt lên: “Bọn này không thể tha thứ được, mà chúng có thèm được tha đâu.”
Ngày 24.11.1839, năm vị phải ra toà một lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và các tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết không chối đạo. Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ hội cuối cùng. Ông nói: “Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng tha.” Sau ông lại nói: “Chỉ cần đi vòng quanh tượng ta cũng tha.” Nhưng các vị chứng nhân đức tin bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu. Biết không thể làm nao núng ý chí sắt đá của những con người này, quan truyền đem đi xử với bản án: “Bọn gian ác theo Giatô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn sửa phạt, vẫn ngoan cố không chịu bước qua Thập Giá, nay chúng bị xử giảo”. Khi tới pháp trường Cổ Mễ (Bắc Ninh), mỗi vị bị trói vào một cọc đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lý hình xiết cổ các vị bằng giây thừng cho đến lúc tắt thở. Thi hài vị chứng nhân đức tin Augustinô Nguyễn Văn Mới được cung kính rước về mai táng trong nhà thờ Phương Vĩ (Giáo phận Bắc Ninh).
Ngày 27.5.1900 Đức Giáo hoàng Lêo XIII đã tôn phong vị tôi tớ Chúa: Augustinô Nguyễn văn Mới lên bậc Chân Phước, và ngày 19.6.1988 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
7. THÁNH STÊPHANÔ NGUYỄN VĂN VINH
TÁ ĐIỀN, DÒNG BA ĐAMINH (1813 – 1839)
THÁNH STÊPHANÔ NGUYỄN VĂN VINH (pdf)
Thánh Stêphanô Vinh là một trường hợp hy hữu, trong danh mục Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Khi bị bắt, anh mới chỉ là một dự tòng chưa được rửa tội. Nhưng với những hiểu biết ít ỏi về đạo, anh đã kiên trì làm chứng cho chân lý. Mặc dù khi vào tù anh mới chính thức gia nhập đạo, rồi thành hội viên dòng ba Đaminh, nhưng anh không thua kém ai về lòng can đảm tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.
Stêphanô Nguyễn văn Vinh sinh năm 1813 tại làng Bồ Trang (Nay thuộc Giáo họ Bái Đông, xứ Bồ Ngọc, xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Giáo phận Thái Bình). Sống trong một gia đình ngoại giáo rất nghèo, một miếng đất cũng không có, anh Vinh quanh năm phải đi làm thuê làm mướn cho các gia đình ở Kẻ Mốt (Bắc Ninh). Trường học duy nhất anh ham thích và theo được là các lớp giáo lý, nơi anh tập đánh vần và học truyền khẩu. Đặc biệt anh đem các điều học ở đó ra thực hành trong cuộc sống. Có điều là người ta không biết vì sao anh chưa được rửa tội. Mọi người đều mến thương anh vì anh đơn sơ, chất phác, khỏe mạnh và thật thà. Trong công việc anh không bao giờ làm cho qua loa chiếu lệ, ai thuê việc gì, anh cũng chu toàn tốt đẹp, không có gì để chê trách. Cho đến khi bị bắt (lúc 26 tuổi) anh vẫn sống độc thân chưa lập gia đình.
Ngày 29.6.1838, khi quan quân vây bắt cha Tự ở Kẻ Mốt, và bắt mọi người phải đạp qua Thánh Giá, chàng thanh niên 25 tuổi này đã anh dũng nói thẳng với họ rằng: “Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên Thánh Giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật.” Vì lời nói này, quan quân tưởng anh là người trong đạo, thế là họ bắt anh Vinh và áp giải về trại giam Bắc Ninh chung với cha Tự, ông trùm Cảnh, thầy Úy, thầy Mậu, anh Mới và anh Đệ. Chính tại đây, anh Vinh được diễm phúc làm người Kitô hữu, được hân hạnh làm con Cha Thánh Đaminh. Suốt hành trình tử đạo, anh là một nhân chứng trầm lặng, nhưng gông cùm, xiềng xích và tra tấn không lần nào làm anh sa ngã hay thối chí. Chọn quan thầy Stêphanô trong tù, anh cương quyết noi theo vị Thánh tTử đạo tiên khởi của Giáo hội đến hơi thở cuối cùng.
Sau một tháng bị dọa nạt tra khảo, bảy chiến sĩ đức tin vẫn vững lòng. Ngày 27.7.1838, quan tỉnh Bắc Ninh đệ án vào triều xin xử giảo cha Tự và ông trùm Cảnh, còn năm vị kia quan cho là nhẹ dạ tin theo, nên xin đánh mỗi người một trăm roi rồi phát lưu vào Bình Định. Nhưng vua Minh Mệnh cho rằng tội theo đạo Giatô thuộc loại nặng, nên quyết định xử chém hai vị trên ngay tức khắc, còn tất cả sẽ bị xử giảo sau một năm nếu không chịu thay đổi ý kiến.
Ngày 19.8.1839 quan cho điệu tất cả ra tòa, vẫn để Thánh Giá một bên, bên kia là hình cụ tra tấn. Quan nói: “Các anh bị giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta tha về với vợ con.” Thầy Mậu Đại diện anh em trả lời: “Chúng tôi đã quyết tâm trung thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu hay giết cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng.” Rồi cả năm vị quỳ xuống bái lạy Thánh Giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con, con xin phó thác hồn con trong tay Chúa.” Thất vọng, quan cho lính đưa tất cả về ngục và thốt lên: “Bọn này không thể tha thứ được, mà chúng có thèm được tha đâu.”
Ngày 24.11.1839, năm vị phải ra toà một lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và các tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết không chối đạo. Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ hội cuối cùng. Ông nói: “Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng tha.” Sau ông lại nói: “Chỉ cần đi vòng quanh tượng ta cũng tha.” Nhưng các vị chứng nhân đức tin bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu.
Biết không thể làm nao núng ý chí sắt đá của những con người này được nữa, quan liền truyền đem đi xử với bản án: “Bọn gian ác theo Giatô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn sửa phạt, vẫn ngoan cố không chịu bước qua Thập Giá, nay chúng bị xử giảo”. Trên đường ra pháp trường, anh Vinh và các bạn đều tỏ ra rất hân hoan kiên cường. Dân chúng hiếu kỳ đi xem rất đông và xì xào với nhau là các vị này bị giết oan. Theo gương thầy Mậu, các chứng nhân tươi cười với mọi người: “Anh em chúng tôi đang tiến về thiên đàng đây.” Khi tới nơi xử, anh Vinh và các bạn, mỗi vị bị trói vào một cọc đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lý hình xiết cổ các vị bằng giây thừng cho đến lúc tắt thở. Các tín hữu rước thi thể vị nhân chứng đức tin Stephanô Nguyễn Văn Vinh Vinh về mai táng tại nhà thờ Giáo họ Hương La.
Ngày 27.5.1900 Đức Giáo hoàng Lêo XIII đã tôn phong vị tôi tớ Chúa: Stephanô Nguyễn Văn Vinh lên bậc Chân Phước, và ngày 19.6.1988, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
WGPBN
Tin liên quan