Tâm nguyện đời linh mục của ĐTC Phanxicô
Trong tác phẩm tự truyện Hy Vọng mới được công bố, Đức Phanxicô đã chia sẻ một tâm nguyện, vừa như lời cầu nguyện, vừa như lời tuyên xưng đức tin cá nhân của ngài nhân dịp ngài được truyền chức linh mục. Sau đây, người viết xin trích giới thiệu lời tâm nguyện và một vài đoạn từ tác phẩm này để cùng hiệp thông cầu nguyện cho ngài sớm được bình phục.
“Năm anh em chúng tôi được thụ phong cùng nhau vào ngày 13 tháng 12 năm 1969: các tân linh mục Hardoy, Ávila, Bergoglio, Grados Acosta, Martensen. Thánh lễ diễn ra ngoài trời, giữa khu vườn tuyệt đẹp của Học viện Thánh Máximo de San José, do Đức nguyên Tổng Giám mục của Córdoba, Ramón José Castellano chủ sự.
Đó là buổi chiều một ngày thứ Bảy, ngày lễ Thánh Lucia.
Cha Ricardo Martensen thành lập phong trào Lời Chúa (Movimiento de la Palabra de Dios) năm năm sau, một cộng đoàn tông đồ hiện diện ở nhiều quốc gia Nam Mỹ và Tây Ban Nha. Cha lớn hơn tôi vài tuổi, và khi tôi viết những dòng chữ này, ngài vẫn còn sống.
Ávila, trái lại, rời bỏ chức linh mục và kết hôn. Ông qua đời vài năm trước, và những người khác cũng qua đời.
Còn về phần tôi, thật khó để tôi thật sự kể lại những cảm xúc của ngày hôm đó.
Tôi bị chững lại.
Điều này luôn xảy ra với tôi khi đối diện với điều gì đó lớn lao.
Tôi bị chững lại, trong sự bình an, tĩnh lặng, và có lẽ đó là một ‘sự phòng vệ’ của tôi. Những cảm xúc sau đó mới hình thành.
Trong những ngày chuẩn bị cho nghi lễ, tôi đã viết một lời cầu nguyện, lời tuyên xưng đức tin cá nhân của tôi. Tôi xác nhận hôm nay, như tôi đã làm vào thời điểm đó:
Tôi muốn tin vào Thiên Chúa là Cha,
Đấng yêu thương tôi như một người con,
và tin vào Đức Giêsu là Chúa
Đấng thổi Thần Khí vào cuộc đời tôi,
để cho tôi được nở nụ cười
và dẫn tôi vào vương quốc hằng sống.
Tôi tin trong câu chuyện đời tôi
được ánh mắt Chúa xót thương xuyên thấu
vào ngày xuân 21 tháng Chín,
Ngài đã đến với tôi và gọi tôi bước đi theo Ngài.
Tôi tin trong nỗi đau của mình,
cằn cỗi vì bám víu vào ích kỷ.
Tôi tin trong cảnh linh hồn bần cùng,
chỉ muốn nhận mà không biết dâng hiến.
Tôi tin rằng những người khác tốt lành,
tôi phải yêu thương tất cả không sợ hãi
không bao giờ được phép phản bội,
để tìm kiếm an toàn cho bản thân.
Tôi tin vào cuộc đời hiến dâng.
Tin rằng tôi muốn yêu thương tha thiết.
Tôi tin vào cái chết từng ngày bỏng rát
Dù tôi trốn chạy, nó vẫn mỉm cười
mời gọi tôi vui tươi đón nhận.
Tôi tin vào lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa,
luôn hiền hòa và bao dung như đêm hè yên bình.
Tôi tin cha tôi đang ở trên trời bên Chúa.
Tôi tin cha Duarte cũng ở đó,
luôn nguyện cầu cho đời linh mục của tôi.
Tôi tin vào Mẹ Maria, Mẹ của tôi,
Mẹ luôn yêu thương, không bao giờ bỏ rơi tôi.
Từng ngày tôi chờ đợi sự bất ngờ,
khi tình yêu, sức mạnh lộ ra cùng sự phản bội
và cả tội lỗi vẫn đồng hành với tôi,
cho đến ngày tôi được diện kiến dung nhan Đấng tuyệt mỹ
Đấng tôi chưa biết rõ,
Đấng tôi từng trốn chạy,
cũng là Đấng tôi khao khát nhận biết và mến yêu. Amen.”
(trích tự truyện Hy Vọng, chương 16, Như bé thơ trong vòng tay mẹ,)
Đáng chý ý, trong lời tâm nguyện này, Đức Phanxicô nhắc lại biến cố “ngày xuân 21 tháng 9”:
Tôi tin trong câu chuyện đời tôi
được ánh mắt Chúa xót thương xuyên thấu
vào ngày xuân 21 tháng Chín,
Ngài đã đến với tôi và gọi tôi bước đi theo Ngài.
Đó không phải là ngày chịu chức (13.12.), cũng không phải là sinh nhật (17.12.1936) hay ngày chịu phép rửa tội (lễ Giáng Sinh). Đó là một ngày xảy ra vào năm 1953, khi ngài nghe được tiếng gọi. Trong chương 11, Đức Phanxicô đã kể lại kinh nghiệm thiêng liêng này:
“Ngày 21 tháng 9 năm 1953, tôi đã có một cuộc hẹn. Đó là một ngày thứ Hai, nhưng đồng thời cũng là ngày lễ: ở nơi tôi sống, đó là ngày bắt đầu mùa xuân. Tôi cùng bạn bè trong giáo xứ đã bàn đến sự kiện này từ lâu.
Lễ đầu xuân cũng là ngày của học sinh, một ngày hội lớn cho tất cả giới trẻ. Người ta ra ngoài dạo chơi, tụ họp làm những buổi picnic. Người thì nằm dài dưới ánh nắng đầu mùa để xua tan cái ẩm ướt và lạnh lẽo của mùa đông. Người thì chơi đàn guitar hoặc tham dự các buổi biểu diễn ngoài trời. Các con đường và công viên bừng sáng sắc tím của hoa phượng tím (jacaranda). Ở Buenos Aires, người ta thường đến Vườn hoa Nhật bản (El Jardín Japonés), quảng trường Pháp, hay Rừng Palermo vốn là những nơi đẹp nhất thủ đô.
Nói chung, chúng tôi đã đồng ý gặp nhau.
Buổi sáng hôm đó, tôi cần làm một việc cho mẹ, giải quyết giấy tờ giúp một người phụ nữ trong khu phố xin lương hưu. Sau đó sẽ đến điểm hẹn ở bến xe. Nhưng trước khi lên xe điện, khi đi qua nhà thờ Thánh Giuse (San José), tôi bỗng cảm nhận như có ai đó gọi mình. Đúng hơn, một sức mạnh thúc giục tôi bước vào trong. Cảm giác ấy rất mãnh liệt và lạ thường, pha lẫn một chút “mê tín”: Nếu không vào, có thể xảy ra chuyện gì đó với bạn.
Vậy là tôi bước vào.
Tôi nhìn cuối hành lang dài của thánh đường, hướng về bàn thờ, và thấy một vị linh mục đi về phía tôi. Đó là một người tôi chưa bao giờ gặp, dù đây là nhà thờ tôi thường đến dự lễ Chúa nhật. Lúc đó, tôi cảm thấy mình cần phải xưng tội. Vị linh mục ngồi vào một tòa giải tội cuối cùng ở bên trái bàn thờ. Tôi cũng bước vào. Tôi không thể diễn tả chính xác đã xảy ra điều gì. Dĩ nhiên tôi xưng tội. Vị linh mục đối xử với tôi rất nhân từ, dịu dàng. Nhưng cảm giác lớn lao hơn những gì có thể diễn tả bằng lời. Khi bước ra, tôi đã không còn là con người cũ nữa. Tôi nhận ra rằng mình sẽ trở thành linh mục.
Trước đó, ý nghĩ trở thành linh mục đã thoáng qua đầu tôi một cách mơ hồ khi học năm cuối tiểu học tại trường dòng Salêdiêng. Đó chỉ là một suy nghĩ thoảng qua của một đứa trẻ và tan biến nhanh chóng sau mùa hè với những ngày làm việc lau dọn trong nhà máy.
Và chắc chắn đó không phải là kế hoạch của tôi trong ngày xuân hôm ấy. Cả khi bước vào nhà thờ sáng hôm đó, tôi cũng không hề nghĩ đến điều này. Nhưng giờ thì tôi đã ‘ngã ngựa’ [như Phaolô], và mọi thứ đã thay đổi hoàn toàn.
Chiều hôm ấy, tôi không đến điểm hẹn tại bến xe với bạn bè như đã dự định. Có người viết rằng đáng lẽ tôi đã định ngỏ lời với một người bạn gái, nhưng không phải như vậy: đó chỉ là tiểu thuyết thôi. Sự thật là tôi đã không đến, vì một ‘điều gì đó’ lớn lao đã xảy ra và không thể phớt lờ.
Tôi không biết rằng mình vừa có một cuộc hẹn khác, nhưng như sau này tôi đã nhiều lần trải nghiệm. Chúa luôn đi bước trước. Ở Argentina, chúng tôi dùng một thành ngữ có phần dân dã nhưng rất chính xác: đi bước trước (ci primerea). Như cành hạnh nhân mà tiên tri Giêrêmia miêu tả, loài hoa đầu tiên nở vào mùa xuân (Gr 1,11). Bạn nghĩ mình đang đi tìm Ngài. Nhưng thật ra, Ngài đã chờ sẵn bạn rồi. Bạn phạm tội, và Ngài đã sẵn sàng để tha thứ !
Ngài đã ở đó từ trước. Tôi nhận ra với tất cả sự kinh ngạc.
Tôi hoàn thành việc giúp người bạn của mẹ, về nhà ăn trưa, và không đi nữa.
Nhưng trước đó, ngay sau khi ra khỏi tòa giải tội, tôi đã đứng lại trò chuyện đôi chút với vị linh mục mà tôi đoán chừng ngoài 50 tuổi. Tôi hỏi: “Con chưa từng thấy cha ở đây. Cha không phải người ở đây, đúng không ạ?’’
Ngài giới thiệu tên là Carlos Duarte Ibarra, đến từ Corrientes, một tỉnh cách Buenos Aires khoảng 800 km, giáp biên giới Brazil.
Tôi không kể với ngài điều gì khác, chắc chắn không phải những gì tôi đã cảm thấy vào lúc đó. Tôi cũng không bao giờ nói điều đó với bất kỳ ai khác trong những năm học trung học.
Nhưng tôi đã chờ thêm một tuần. Rồi trong những tháng tiếp theo, tôi tiếp tục đến thăm vị linh mục đó. Đôi khi tôi đi cùng một người bạn thân thiết của tôi, Luigi Maria Canton. Với cha Duarte, từng chút một, tôi bắt đầu trò chuyện về mọi thứ, kể cả những gì đã xảy ra với tôi. Ngài đến từ thành phố São Tomé, một đô thị nhỏ với 20.000 dân từng là một khu định cư của các tu sĩ Dòng Tên. Thành phố này nối liền với São Borja, một đô thị của Brazil, qua cây cầu Integração. Lúc đó, cha đang sống tại nhà dành cho giáo sĩ ở Flores, vì ngài đang điều trị ung thư tại bệnh viện quân đội, nơi ngài đảm nhận vai trò tuyên úy. Ngài bị bệnh bạch cầu. Ngài đã kể với tôi rằng ngài từng là một người cải đạo, trước khi làm linh mục từng là một nghệ sĩ sân khấu. Ngài toát lên là một trí thức và từng trải. Có lần, chúng tôi cùng đi xem kịch, thậm chí đi xem opera. Một dịp khác, ngài mời tôi đi xem một bộ phim mang chủ đề Kitô giáo, một bộ phim sử thi của Mỹ có tên Tấm Áo Choàng,[1] (La tunica) với diễn viên Richard Burton, bộ phim rất nổi tiếng vào năm đó. Sau đó, tôi lại đi xem cùng bà nội Rosa. Những cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi tiếp tục diễn ra. Ngài lắng nghe tôi với sự tôn trọng và đầy lòng nhân ái, khiến tôi cảm thấy nhẹ nhõm.
Cho đến khi căn bệnh của ngài trở nặng hơn. Chỉ trong hơn một năm, cha Duarte qua đời. Tôi đã ở bên ngài tại bệnh viện khi chuyện đó xảy ra. Tôi đã khóc trong cơn đau khổ như chưa từng trải qua trước đây. Đó là lần đầu tiên tôi cảm nhận một sự tuyệt vọng sâu sắc như vậy. Tôi cảm thấy hoàn toàn lạc lối, cô đơn, bị bỏ rơi. Tôi gần như sợ rằng, khi cha rời đi, người duy nhất tôi từng chia sẻ những suy nghĩ sâu kín nhất và cũng là người khiến tôi cảm nhận lòng thương xót của Chúa, thì Chúa cũng sẽ bỏ rơi tôi.
Nhưng không, thay vào đó, một lần nữa tôi nhận được lòng thương xót của Ngài.
Ngày 21 tháng 9 là lễ thánh Mátthêu, và khi nói về ơn hoán cải của Mátthêu, người thu thuế, thánh Beda khả kính đã nói rằng Chúa Giêsu nhìn Mátthêu với ánh mắt “thương xót và tuyển chọn” (miserando atque eligendo). Cụm từ này đã trở thành khẩu hiệu Giám mục, và sau này là khẩu hiệu Giáo hoàng của tôi. Đây là một biểu đạt không thể dịch sát mặt chữ sang tiếng Ý hoặc tiếng Tây Ban Nha, vì trong hai ngôn ngữ này, một trong hai động từ không có dạng động danh từ. Dịch thô có thể là “thương xót và tuyển chọn”, nhưng nó giống như một công việc thủ công tinh xảo, giống những thứ mà ông ngoại Francisco từng làm trong xưởng mộc ở Bocayuva. “Ngài đã thương xót tôi.” Nhiều năm sau, khi lần đầu đọc kinh nhật tụng bằng tiếng Latinh, tôi đã bắt gặp đoạn này. Tôi nhận ra rằng Chúa đã nhào nặn tôi một cách công phu bằng lòng thương xót của Ngài. Mỗi lần đến Roma, tôi thường trú ở phố Scrofa và đến nhà thờ thánh Luigi người Pháp để cầu nguyện trước bức tranh Ơn Gọi của Thánh Mátthêu của danh họa Caravaggio[2]. Đó là một cảnh đầy biểu tượng, với các nhân vật mặc y phục đương thời của nghệ sĩ, chìm trong bóng tối dày đặc, và bừng sáng nhờ một tia sáng trắng xuyên qua.
[…]
Tôi đã trải qua kinh nghiệm cô đơn, một dạng ‘cô đơn thụ động’, kiểu cô đơn khiến bạn đau khổ mà không có nguyên nhân rõ ràng, không do một khủng hoảng hay mất mát nào. Nhưng tôi biết mình đã ‘ngã ngựa,’ và một con đường khác đã mở ra trước mắt.
Ngay cả trong những lúc đen tối nhất, thậm chí trong những lúc tội lỗi, tôi vẫn cảm nhận rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi mình; rằng Ngài đã mở lòng ra với kẻ khốn cùng như từ ‘misericordia’ trong tiếng Latinh diễn tả. Với tôi, ‘thẻ căn cước’ của Thiên Chúa chính là lòng thương xót của Ngài.’’
Trích tự truyện Hy Vọng của ĐGH Phanxicô, Đình Chẩn dịch từ tiếng Ý
[1] Quen gọi “tấm áo choàng của Chúa”, là bộ một phim kinh điển, được sản xuất năm 1953 tại Hoa Kỳ. Đây là một bộ phim lịch sử tôn giáo nổi tiếng, được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Lloyd C. Douglas. Phim do Henry Koster đạo diễn. Phim kể câu chuyện về Marcellus Gallio, một viên quan La Mã phụ trách việc đóng đinh Chúa Giêsu, và cuộc đời ông thay đổi ra sao khi ông chiếm hữu chiếc áo choàng mà Chúa Giêsu mặc trước khi bị đóng đinh. Chiếc áo dường như có sức mạnh bí ẩn, khiến Marcellus bắt đầu chất vấn niềm tin của mình, dẫn đến sự hoán cải về tâm linh và đức tin. [Người dịch chú giải thêm]
[2] Caravaggio (1571–1610) là danh họa Baroque người Ý, nổi tiếng với nghệ thuật ánh sáng–bóng tối (chiaroscuro) và phong cách hiện thực táo bạo. Ông thường khắc họa những câu chuyện tôn giáo bằng hình ảnh đời thường, gần gũi nhưng đầy kịch tính. Các tác phẩm nổi bật gồm Ơn gọi của Matthêu, cuộc hoán cải của thánh Phaolô, và Tiệc ly ở làng Emmaus. Phong cách của ông ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều nghệ sĩ sau này. [Người dịch chú giải thêm]