Phần thứ năm Kinh bản Công giáo: Giáo lý căn bản
Phần thứ năm
GIÁO LÝ CĂN BẢN
Phần thứ năm
GIÁO LÝ CĂN BẢN
Trẻ Em Xưng Tội Hiệp Lễ Lần Đầu
H- Đạo chúng ta là Đạo nào ?
T- Là Đạo Công Giáo.
H- Đạo Công Giáo dạy ta sống trên đời để làm gì ?
T- Để nhận biết và phụng sự Thiên Chúa, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, mong ngày sau được hạnh phúc vô cùng.
H- Tại sao ta biết có Thiên Chúa ?
T- Ta biết có Thiên Chúa vì suy luận: Vũ trụ này bao la và trật tự cần có Đấng sáng tạo và điều khiển, nhất là vì Thiên Chúa đã sai Con Chúa xuống trần gian để dạy cho ta biết về Người.
H- Thiên Chúa là Đấng nào ?
T- Thiên Chúa là Đấng có tự mình, thiêng liêng, hằng hữu, thánh thiện, yêu thương, thông minh, quyền phép vô cùng, sáng tạo vũ trụ vạn vật, thưởng người lành phạt kẻ dữ.
H- Có mấy Thiên Chúa ?
T- Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.
H- Thiên Chúa có mấy ngôi ?
T- Thiên Chúa có ba ngôi: ngôi nhất là Cha, ngôi hai là Con, ngôi ba là Thánh Thần.
H- Ba ngôi có hơn kém nhau không?
T- Ba ngôi hoàn toàn bằng nhau vì đồng bản tính và có đầy đủ mọi sự tốt lành như nhau.
H- Ba ngôi Thiên Chúa làm gì cho ta?
T- Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc, Chúa Thánh Thần thánh hóa ta. Hơn nữa, ba ngôi cùng đến ngự trong mình ta khi ta kính mến Ngài.
H- Nghĩa vụ ta đối với Thiên Chúa Ba Ngôi phải thế nào ?
T- Ta phải tin – cậy – mến, tôn thờ và năng tưởng nhớ đến Thiên Chúa Ba Ngôi, nhất là khi làm dấu Thánh giá và đọc kinh Sáng danh.
H- Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ thế nào?
T- Thiên Chúa phán truyền liền có vũ trụ không cần vật liệu gì ?
H- Trong các loài Thiên Chúa sáng tạo loài nào trọng hơn ?
T- Hai loài trọng hơn là thiên thần và người ta.
H- Thiên thần là loài thế nào ?
T- Thiên thần là loài thiêng liêng, Thiên Chúa sáng tạo để phụng sự Chúa và hưởng phúc thiên đàng.
H- Các thiên thần có phục tùng Thiên Chúa không ?
T- Một số thiên thần phản nghịch, trở thành ma quỷ và phải sa hỏa ngục.
H- Ma quỷ có ghen ghét ta không ?
T- Ma quỷ hằng ghen ghét ta, luôn tìm dịp làm hại và cám dỗ ta phạm tội.
H- Các thiên thần có hộ giúp ta không?
T- Các thiên thần bảo vệ ta, giúp ta làm việc lành tránh sự dữ. Mỗi người có một thiên thần bản mệnh, ta phải tôn kính và tin cậy người.
H- Người ta là loài thế nào ?
T- Người ta là loài gồm xác hồn hợp nhất, được Thiên Chúa sáng tạo giống hình ảnh Ngài.
H- Hồn xác phần nào trọng hơn ?
T- Phần hồn trọng hơn nên Đức Giêsu đã nói: “Được lợi cả trần gian mà mất linh hồn nào được ích gì ?”
H- Khi sáng tạo Thiên Chúa đưa con người lên bậc siêu nhiên nghĩa là gì?
T- Nghĩa là Thiên Chúa ban cho con người được thông công vào sự sống của Chúa, trở nên con Chúa, và sau được hưởng kiến Chúa trên trời.
H- Nguyên tổ loài người là ai?
T- Là ông A-đam và bà E-và.
H- Ông A-đam và bà E-và có hằng vâng lời Thiên Chúa không ?
T- Ông bà đã nghe ma quỷ cám dỗ, lỗi điều Chúa dạy và truyền tội cho loài người gọi là tội nguyên tổ.
H- Sau khi nguyên tổ phạm tội Thiên Chúa có bỏ loài người không ?
T- Không, Thiên Chúa đã sai Đấng Cứu Thế xuống trần gian để cứu chuộc loài người.
H- Đấng Cứu Thế là ai ?
T- Là Đức Giêsu Kitô Ngôi Hai Thiên Chúa làm người.
H- Ai sinh ra Đức Giêsu về tính loài người ?
T- Đức Bà Maria đồng trinh.
H- Đức Bà đồng trinh thì thụ thai và sinh con thế nào ?
T- Đức Bà thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, do đó con Bà sinh ra được gọi là Con Thiên Chúa, “Bởi vì không có gì Thiên Chúa không làm được”. (Lc 1,35)
H- Đức Giêsu có mấy bản tính ?
T- Đức Giêsu có hai bản tính là bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Hai bản tính đó kết hợp trong một ngôi duy nhất là ngôi thứ hai cũng gọi là Ngôi Lời Thiên Chúa. Vì thế Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người thật.
H- Đức Giêsu sinh ra đã bao lâu ?
T- Đức Giêsu sinh ra đã hơn hai nghìn năm nay, và thế giới đã lấy sự kiện Chúa giáng sinh làm đích để tính niên hiệu công nguyên.
H- Đức Giêsu sinh ra ở đâu ?
T- Đức Giêsu sinh ra ở làng Be-lem miền Nam nước Do Thái.
H- Thời kỳ thanh thiếu niên Đức Giêsu sống thế nào và ở đâu ?
T- Đức Giêsu sống đời ẩn dật, cầu nguyện, cần lao, vâng phục Đức Maria và Thánh Giuse ở Na-za-rét.
H- Đến ba mươi tuổi Đức Giêsu đi đâu?
T- Đức Giêsu đi giảng Đạo độ ba năm.
H- Trong ba năm giảng Đạo Đức Giêsu đã làm những việc gì ?
T- Chúa kêu gọi mọi người hối cải và tin vào Phúc Âm, Chúa cũng làm nhiều phép lạ để chứng minh lời giảng. Chúa còn tuyển chọn và huấn luyện một số môn đệ để sau thay Chúa đi giảng Đạo.
H- Nội dung Phúc Âm Chúa rao giảng là gì?
T- Nội dung Phúc Âm Chúa rao giảng rất phong phú, nhưng có thể tóm lại: Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh em với nhau. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để cứu thế gian. Loài người phải nhận biết Thiên Chúa thật, và Đức Kitô Chúa Cha đã sai đến, đồng thời loài người phải yêu nhau như chính mình để được sống đời đời.
H- Đức Giêsu đã làm gì để cứu chuộc ta ?
T- Người đã hiến thân vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập giá.
H- Đức Giêsu chịu khổ nạn thế nào ?
T- Phần xác Người chịu hành hạ xỉ nhục, chịu đòn đánh, đội mũ gai vác thập giá và chịu đóng đanh giữa hai người trộm cướp. Còn tâm hồn Người rất sầu khổ vì bị hiểu lầm, chống đối, bị phản nộp, cô đơn nhất là cảm thấy như Chúa Cha cũng bỏ rơi Ngài.
H- Đức Giêsu có chết thật không ?
T- Đức Giêsu đã chết thật, vì sau khi người tắt thở, một tên lính lấy giáo đâm vào Trái Tim Người, có nước và máu chảy ra. Sau đó xác Người được mai táng trong mồ, còn linh hồn Người xuống ngục tổ tông đưa các thánh lên thiên đàng.
H- Đức Giêsu có sống lại không ?
T- Đức Giêsu chết chưa được ba ngày thì sống lại như lời Ngài đã báo trước.
H- Đức Giêsu sống lại minh chứng điều gì ?
T- Minh chứng Ngài là Thiên Chúa đã chiến thắng sự chết và tiên báo sự sống lại của xác ta sau này.
H- Sau khi sống lại Đức Giêsu ở đâu ?
T- Đức Giêsu còn ở trần gian bốn mươi ngày để củng cố đức tin cho các môn đệ, và sai các ông đi giảng Đạo, sau đó Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha.
H- Bao giờ Đức Giêsu lại xuống trần gian ?
T- Đến ngày tận thế Chúa Giêsu lại xuống phán xét thiên hạ.
H- Mười ngày sau khi lên trời Đức Giêsu đã làm gì ?
T- Ngài đã sai Chúa Thánh Thần xuống phù trợ các môn đệ, hướng dẫn, thánh hóa và canh tân Giáo Hội ở trần gian.
H- Chúa Thánh Thần là Đấng nào ?
T- Là Thiên Chúa Ngôi Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con.
H- Chúa Thánh Thần làm gì cho ta ?
T- Ngài ngự trong mình ta, thánh hóa và ban cho ta những ơn cần thiết để sống xứng đáng người tín hữu Đức Kitô.
H- Nghĩa vụ ta đối với Chúa Thánh Thần phải thế nào ?
T- Ta phải tôn trọng xác hồn ta là đền thờ Chúa Thánh Thần, phải xa lánh tội lỗi làm mất lòng Ngài, và mau mắn vâng theo ơn Ngài soi sáng.
H- Sau khi Đức Giêsu lên trời, ai tiếp tục công việc của Chúa nơi trần gian?
T- Giáo Hội do Chúa đã sáng lập.
H- Giáo Hội Công giáo gồm những ai?
T- Giáo Hội Công Giáo gồm những tín hữu phục quyền đức giáo hoàng và các giám mục hợp nhất với Ngài.
H- Đức Giêsu đã trao cho Giáo Hội những quyền gì ?
T- Đức Giêsu đã trao cho Giáo Hội quyền giảng dạy, thánh hóa và lãnh đạo các linh hồn.
H- Khi giảng dạy về Đạo Giáo Hội có sai lầm không ?
T- Khi giảng dạy những điều phải tin và những việc phải làm để được rỗi linh hồn thì Giáo Hội không sai lầm, vì có Chúa Thánh Thần soi sáng phù hộ cách riêng, như lời Đức Giêsu phán: “Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến với chúng con để dạy chúng con biết mọi sự thật” (Ga 16,13).
H- Giáo Hội thật của Đức Giêsu có những đặc tính nào ?
T- Giáo Hội thật của Đức Giêsu có bốn đặc tính này: là duy nhất, thánh thiện, phổ quát và tông truyền.
H- Các thành phần trong Giáo Hội có hiệp thông với nhau không ?
T- Tất cả các tín hữu còn sống hoặc đã qua đời mà được lên thiên đàng hay còn trong luyện ngục, đều hiệp thông với nhau trong mầu nhiệm Các Thánh cùng thông công.
H- Địa vị Đức Maria trong Giáo Hội thế nào?
T- Đức Maria là Mẹ Giáo Hội vì đã sinh ra Đức Giêsu là Đầu Giáo Hội, Người cũng là tín hữu ưu tú nhất trong Giáo Hội, vì đã đón nhận Đức Kitô trước hết và đã trung thành sống Đức Tin hơn tất cả mọi người.
H- Đức Maria đã cộng tác vào công việc cứu chuộc thế nào ?
T- Người đã sinh ra và dưỡng nuôi Đấng Cứu Thế, Người cũng dự phần vào đau khổ của Chúa, nhất là trong những ngày Chúa chịu khổ nạn và chịu chết.
H- Đức Maria được những đặc ân nào ?
T- Người được nhiều đặc ân cao quý, nhất là được làm Mẹ Thiên Chúa, được vô nhiễm nguyên tội, được trọn đời khiết trinh, và được lên trời hồn xác hiển vinh.
H- Đức Maria có là Mẹ Thiên Chúa không ?
T- Đức Maria là Mẹ thật Thiên Chúa vì đã sinh ra Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người.
H- Đức Maria có là Mẹ chúng ta không ?
T- Đức Maria là Mẹ thật chúng ta, vì Người là Mẹ Giáo Hội, là một thân thể mầu nhiệm mà chúng ta là thành phần trong thân thể đó.
H- Nghĩa vụ của ta đối với Đức Maria phải thế nào ?
T- Ta phải đặc biệt tôn kính mến yêu, nhất là sống theo các nhân đức của Người.
H- Tự sức riêng ta có thể chu toàn nghĩa vụ người tín hữu không ?
T- Không, vì cần có ơn Chúa hộ giúp như lời Đức Giêsu đã phán: “Không có Thầy các con không thể làm gì được”.
H- Ta phân biệt mấy thứ ơn Chúa ?
T- Ta phân biệt hai thứ: là ơn thánh hóa và ơn phù trợ.
H- Ơn thánh hóa là gì ?
T- Là ơn siêu nhiên, Chúa Thánh Thần đổ vào linh hồn ta, cho ta được thông công vào sự sống Thiên Chúa và trở nên nghĩa thiết với Ngài.
H- Khi nào ta mất ơn thánh hóa ?
T- Khi ta phạm tội nặng.
H- Để được lại ơn thánh hóa ta phải làm gì?
T- Ta phải lĩnh thụ phép Giải Tội hay là ăn năn cách hoàn hảo và muốn lĩnh thụ phép Giải Tội.
H- Ơn phù trợ là gì ?
T- Là sức sống siêu nhiên Chúa ban cho ta tùy trường hợp, giúp ta bảo vệ và tăng cường ơn thánh hóa, xa tránh tội lỗi và làm các việc lành.
H- Muốn được ơn Chúa ta phải làm gì ?
T- Ta phải cầu nguyện và lĩnh thụ các nhiệm tích.
H- Cầu nguyện là gì ?
T- Cầu nguyện là nâng tâm trí lên cùng Chúa để thờ lạy cảm tạ Chúa, xin Chúa tha tội cùng ban ơn lành cho ta và cho người khác.
H- Cầu nguyện có cần không ?
T- Cầu nguyền rất cần, vì là nghĩa vụ của ta đối với Thiên Chúa, và là phương thế để xin những ơn ta thiếu thốn.
H- Ta phải cầu nguyện khi nào ?
T- Ta phải cầu nguyện luôn như Lời Chúa dạy, nhất là sớm tối, lúc bị cám dỗ, khi gặp đau khổ gian nguy.
H- Nhiệm tích là gì ?
T- Là những dấu bề ngoài chỉ và sinh ơn bề trong, Đức Giêsu đã lập ra để thánh hóa chúng ta.
H- Có mấy nhiệm tích ?
T- Có bảy nhiệm tích: một là phép Rửa Tội, hai là phép Thêm Sức, ba là phép Mình Thánh, bốn là phép Giải Tội, năm là phép Xức Dầu, sáu là phép Truyền Chức, bảy là phép Hôn Phối.
H- Phép Rửa Tội là gì ?
T- Là nhiệm tích tẩy xóa tội nguyên tổ và những tội riêng, tha thứ mọi hình phạt bởi tội, ban ơn thánh hóa, cho ta được làm con Chúa và con Giáo Hội.
H- Phép Rửa Tội có cần cho được rỗi linh hồn không ?
T- Rất cần, như lời Chúa phán dạy: “Ai không sinh lại bởi nước và Thánh Thần thì không được vào Nước Thiên Chúa”.
H- Muốn Rửa Tội phải làm thế nào ?
T- Phải chủ ý làm như Giáo Hội làm, rồi lấy nước lã đổ trên da đầu người lĩnh thụ, vừa đổ vừa đọc: “Ta rửa mày nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”.
H- Phép Thêm Sức là gì ?
T- Là nhiệm tích ban cho ta dồi dào Chúa Thánh Thần, và những ơn cần thiết để làm chứng nhân cho Đức Kitô trong đời sống và làm tông đồ trong Giáo Hội.
H- Phép Mình Thánh là gì ?
T- Là nhiệm tích Đức Giêsu hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu, để tiếp tục dâng Mình tế lễ Chúa Cha như xưa trên thập giá và để ban Mình làm của nuôi linh hồn ta khi hiệp lễ.
H- Hiệp lễ nên thì được những ơn ích gì?
T- Được nhiều ơn ích, nhất là được kết hợp mật thiết cùng Đức Giêsu, được thêm ơn thánh hóa, giảm bớt nết xấu, và được bảo đảm cho ta sống lại vinh quang ngày tận thế.
H- Muốn hiệp lễ nên phải làm gì ?
T- Phần hồn phải sạch tội nặng và có ý ngay lành, phần xác phải nhịn ăn uống đủ một giờ trước khi hiệp lễ, trừ nước lã uống lúc nào cũng được.
H- Phép Giải Tội là gì ?
T- Là nhiệm tích tha những tội ta phạm từ sau khi rửa tội, cùng giao hòa ta với Thiên Chúa và Giáo Hội.
H- Muốn lĩnh thụ phép Giải Tội phải làm thế nào ?
T- Phải xét mình, ăn năn quyết chừa, xưng tội và đền tội.
H- Trong những việc đó việc nào cần hơn?
T- Ăn năn quyết chừa là việc cần hơn.
H- Có mấy cách ăn năn tội ?
T- Có hai cách: là ăn năn cách hoàn hảo và không hoàn hảo.
H- Ăn năn cách hoàn hảo là gì ?
T- Là lo buồn ghét tội vì mến Chúa là Đấn tốt lành yêu thương ta, nhất là đã cho Con Ngài chịu chết vì ta.
H- Ăn năn cách không hoàn hảo là gì ?
T- Là lo buồn ghét tội, vì sợ thiệt phần linh hồn, nhất là sợ mất phúc thiên đàng và phải phạt trong hỏa ngục.
H- Phải xưng những tội nào ?
T- Phải xưng hết mọi tội nặng, ai dấu một tội nặng mà thôi cũng không được khỏi tội nào, mà còn mắc tội phạm thánh.
H- Phép Xức Dầu là gì ?
T- Là nhiệm tích nâng đỡ bệnh nhân phần hồn phần xác.
H- Phép Xức Dầu ban những ơn ích gì ?
T- Phép Xức Dầu tẩy xóa tội lỗi và những vết tội còn sót lại thêm sức cho bệnh nhân được nhẫn nại chịu đau đớn, chống trả các cơn cám dỗ, có khi ban cho xác được khoẻ lại, nếu sức khoẻ làm ích cho linh hồn.
H- Khi nào phải lĩnh thụ phép Xức Dầu?
T- Khi người ta ốm nặng hoặc già nua kiệt sức.
H- Phép Truyền Chức là gì ?
T- Là nhiệm tích ban quyền thiêng liêng, và những ơn cần thiết cho người chịu chức được làm các nhiệm vụ thánh cho xứng đáng.
H- Phép Hôn Phối là gì ?
T- Là nhiệm tích ban cho hai người nam nữ kết hôn nên vợ chồng trước mặt Chúa và Giáo Hội, cùng những ơn cần thiết trong bậc ấy.
H- Phép Hôn Phối buộc giữ điều gì?
T- Buộc phải giữ một vợ một chồng và phải ở trung thành với nhau cho đến chết.
H- Những người kết hôn phải có mục đích gì?
T- Phải có mục đích yêu thương nhau, đưa đến việc sinh con cái và giúp đỡ nhau, nhất là phần linh hồn.
H- Tin Đạo và lĩnh thụ phép Rửa Tội có đủ cho được rỗi linh hồn không ?
T- Không đủ, vì những ai đến tuổi khôn còn phải tuân giữ các giới luật Thiên Chúa và Giáo Hội.
H- Giới luật thứ nhất Thiên Chúa dạy điều gì?
T- Giới luật thứ nhất Thiên Chúa dạy: Phải thờ phượng một mình Thiên Chúa, không được thờ loài nào khác ngoài Thiên Chúa, không được thờ Thiên Chúa cách bất xứng, không được làm những việc dị đoan như đơm cúng, đồng bóng bói khoa.
H- Giới luật thứ hai Thiên Chúa dạy điều gì?
T- Giới luật thứ hai Thiên Chúa dạy: Phải tôn kính danh Chúa, không được thề gian, nói phạm thượng hoặc lỗi điều khấn hứa.
H- Giới luật thứ ba Thiên Chúa dạy điều gì?
T- Giới luật thứ ba Thiên Chúa dạy: Phải thánh hóa ngày của Chúa, nghĩa là phải dùng ngày ấy mà làm việc lành phúc đức hơn ngày khác.
H- Giới luật thứ bốn Thiên Chúa dạy điều gì?
T- Giới luật thứ bốn Thiên Chúa dạy: Con cái phải thảo kính cha mẹ, cha mẹ phải săn sóc con cái, người dưới phải tôn trọng cấp trên, người trên phải yêu thương cấp dưới, người dân phải phục vụ Tổ Quốc.
H- Giới luật thứ năm Thiên Chúa dạy điều gì?
T- Giới luật thứ năm Thiên Chúa dạy: Phải tôn trọng thân xác linh hồn của mình và của người khác, không được giết mình hoặc giết người, không được đánh đập chửi rủa buồn giận thù ghét ai, không được làm dịp cho ai phạm tội.
H- Giới luật thứ sáu Thiên Chúa dạy điều gì?
T- Giới luật thứ sáu Thiên Chúa dạy: Phải giữ đức thanh tịnh trong hành động, không được làm sự dâm ô hay là nói năng, nhìn xem hoặc vui nghe những sự về đàng ấy.
H- Giới luật thứ bảy Thiên Chúa dạy điều gì?
T- Giới luật thứ bảy Thiên Chúa dạy: Phải tôn trọng của cải người khác không được lấy hoặc làm thiệt hại của ai cách bất công.
H- Khi đã lấy hoặc làm thiệt hại của ai cách bất công phải làm thế nào?
T- Ngoài việc xưng tội, còn phải đền trả cho chủ của.
H- Giới luật thứ tám Thiên Chúa dạy điều gì?
T- Giới luật thứ tám Thiên Chúa dạy: Phải tôn trọng sự thật, tôn trọng danh dự người khác, không được nói dối, nói hành, vu khống, làm chứng gian, hoặc xét đoán sự xấu cho ai, không được tiết lộ điều buộc giữ kín.
H- Giới luật thứ chín Thiên Chúa dạy điều gì?
T- Giới luật thứ chín Thiên Chúa dạy: Phải giữ đức thanh tịnh trong tâm trí, không được nghĩ tưởng ước muốn sự dâm ô.
H- Giới luật thứ mười Thiên Chúa dạy điều gì ?
T- Giới luật thứ mười Thiên Chúa dạy: Không được tham muốn của người ta hoặc âm mưu làm thiệt hại của ai cách bất công.
H- Giới luật thứ nhất và thứ hai Giáo Hội dạy điều gì ?
T- Giới luật thứ nhất và thứ hai Giáo Hội dạy: Những ai đến tuổi khôn phải dự lễ và kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc.
H- Giới luật thứ ba Giáo hội dạy điều gì?
T- Giới luật thứ ba Giáo Hội dạy: Những ai đến tuổi khôn phải xưng tội một năm ít là một lần.
H- Giới luật thứ bốn Giáo Hội dạy điều gì?
T- Giới luật thứ bốn Giáo Hội dạy: Những ai đến tuổi khôn phải hiệp lễ trong Mùa Phục Sinh. Hiện nay ở nước ta Mùa Phục Sinh kể từ Lễ Tro đến Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
H- Giới luật thứ năm Giáo Hội dạy điều gì?
T- Giới luật thứ năm Giáo Hội dạy: Những ai từ 18 đến hết 59 tuổi phải giữ chay những ngày chỉ định. Hiện nay là Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh.
H- Giới luật thứ sáu Giáo Hội dạy điều gì?
T- Giới luật thứ sáu Giáo Hội dạy: Những ai từ 14 tuổi trở lên phải kiêng thịt các ngày Giáo Hội truyền. Hiện nay là Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh.
H- Muốn được hưởng phúc thiên đàng phải tin Đạo và giữ các giới luật cho đến bao giờ?
T- Phải tin và giữ cho đến chết.
H- Chết đoạn linh hồn sẽ ra sao ?
T- Linh hồn sẽ chịu phán xét về tội phúc mình đã làm ở trần gian.
H- Linh hồn có tội nặng sẽ đi đâu ?
T- Linh hồn có tội nặng sẽ xuống hỏa ngục ở với ma quỷ, chịu lửa thiêu đốt và nhiều hình khổ khác, nhất là phải lìa cách Chúa đời đời.
H- Nếu sạch mọi tội hoặc đã đền tội đủ linh hồn sẽ đi đâu ?
T- Linh hồn sẽ lên thiên đàng hưởng Chúa và được hạnh phúc vô cùng.
H- Nếu đền tội chưa đủ hay còn mắc tội nhẹ linh hồn sẽ đi đâu ?
T- Linh hồn sẽ xuống luyện ngục chịu nhiều hình khổ, nhất là phải tạm xa cách Chúa cho đến khi đền tội xong mới được lên thiên đàng.
H- Ta có giúp được các linh hồn nơi luyện ngục không ?
T- Trong mầu nhiệm Các Thánh cùng thông công, ta có thể cầu nguyện, lĩnh ân xá, làm việc lành phúc đức, nhất là xin lễ cho các linh hồn ấy chóng được lên thiên đàng.
H- Xác người ta có sống lại không ?
T- Đến ngày tận thế xác mọi người sẽ sống lại để cùng với linh hồn chịu phán xét chung.
H- Sau khi phán xét chung người ta sẽ đi đâu?
T- Sau khi phán xét chung người lành sẽ lên thiên đàng hưởng phúc đời đời, kẻ dữ sẽ xuống hỏa ngục chịu phạt vô tận.
H- Phải quan niệm thế nào về hôn nhân?
T- Phải quan niệm hôn nhân là việc quan trọng do Thiên Chúa sáng lập từ khi dựng nên loài người.
H- Thiên Chúa sáng lập hôn nhân thế nào?
T- Theo Thánh Kinh thuật lại: “Sau khi dựng nên nguyên tổ A-đam, Thiên Chúa tác thành E-và và đưa đến cùng A-đam. Ông nói: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi. Từ nay, người nam sẽ bỏ cha mẹ để gắn bó với vợ mình và cả hai nên một xương thịt” (St 2, 23-24). Đó là hôn nhân đầu tiên trong lịch sử loài người.
H- Đức Giêsu đối với việc hôn nhân thế nào?
T- Đức Giêsu đã chúc phúc cho việc hôn nhân khi đi dự tiệc cưới Ca-na (Ga 2,1-12). Chúa đã nâng việc hôn nhân lên hàng nhiệm tích để ban ơn xác hồn. Chúa còn long trọng nhắc lại luật vĩnh đơn hôn, mà trải qua các thời đại người ta thường lãng quên và vi phạm.
H- Luật vĩnh hôn là gì ?
T- Là luật buộc vợ chồng ở trung thành với nhau cho đến chết, không được lìa bỏ nhau.
H- Luật đơn hôn là gì ?
T- Là luật buộc phải giữ một vợ một chồng, không được lấy người khác khi bạn mình còn sống.
H- Đức Giêsu dạy thế nào về luật vĩnh đơn hôn ?
T- Chúa dạy rằng: “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết loài người không được phân rẽ ra. Ai ly dị bạn mình mà lấy người khác thì phạm tội ngoại tình, và ai lấy người đã ly dị cũng phạm tội ngoại tình nữa” (Mt 19, 2-9).
H- Tại sao luật Chúa buộc ngặt phải giữ một vợ một chồng, và phải trung thành với nhau cho đến chết?
T- Vì là điều kiện cần hẳn để xây dựng hạnh phúc gia đình và giáo dục con cái.
H- Hôn nhân là việc rất quan trọng, liên hệ đến hạnh phúc đời này và phần rỗi đời sau, nên dự định kết hôn phải làm thế nào?
T- Phải cầu nguyện sốt sáng, suy nghĩ chín chắn, bàn hỏi cẩn thận, và tìm hiểu kỹ càng.
H- Tại sao phải cầu nguyện ?
T- Vì sức loài người có hạn cần có Chúa soi sáng mới khỏi sai lầm trong việc lựa chọn, cần ơn Chúa hộ giúp mới làm trọn nghĩa vụ, và đạt tới mục đích của hôn nhân.
H- Tại sao phải suy nghĩ chín chắn và bàn hỏi cẩn thận ?
T- Vì kinh nghiệm cho thấy: vội vàng hấp tấp và quyết định một mình, không bàn hỏi với những người khôn ngoan thì thường xảy ra sai lầm nghiêm trọng và nhỡ nhàng tai hại không hàn gắn được.
H- Ngoài việc cầu nguyện, suy nghĩ và bàn hỏi, người dự hôn phải làm gì ?
T- Phải tìm hiểu kỹ càng người mình định kết hôn, nhất là về đức tin và đạo hạnh. Bởi vì có những điều kiện khác mà thiếu đức tin, kém đạo hạnh thì gia đình không thể hạnh phúc vững bền.
H- Khi tìm hiểu phải có thái độ thế nào?
T- Phải có thái độ đoan trang đứng đắn, tránh những nguy hiểm đến đức thanh tịnh.
H- Dự hôn phải có ý lành nghĩa là gì?
T- Nghĩa là phải có ý chung sống trong tình yêu, đưa đến việc sinh con cái và giúp đỡ nhau nhất là phần linh hồn.
H- Trong thời gian dự hôn và tìm hiểu phải làm gì ?
T- Phải ôn lại kinh bản giáo lý để tăng cường đức tin, và biết dạy Đạo cho con cái sau này.
H- Khi ngày hôn lễ tới gần phải làm gì?
T- Phải chuẩn bị linh hồn cẩn thận. Nếu có thể được nên dành ít là một ngày để làm việc tĩnh tâm tu đức.
H- Trong ngày tĩnh tâm phải làm gì?
T- Phải suy nghĩ về bậc hôn nhân và những nghĩa vụ trong bậc đó. Phải dọn mình xưng tội sốt sáng, quyết tâm sống đời sống mới, nhất là phải cầu nguyện thật nhiều, xin ơn Chúa hộ giúp, vì nếu không có Chúa chúng ta không thể làm gì được.
H- Việc kết hôn phải cử hành thế nào?
T- Phải cử hành trước mặt linh mục có quyền chứng giám và hai người làm chứng theo nghi thức Giáo Hội quy định.
H- Sau khi thành hôn phải làm gì?
T- Phải sớm chung sống và thương yêu nhường nhịn luôn luôn thực hành.
H- Tình yêu vợ chồng phải thế nào ?
T- Tình yêu vợ chồng phải siêu nhiên, nghĩa là yêu vì Chúa không vì xác thịt, và phải sẵn sàng hy sinh để làm ích cho nhau, theo gương Đức Giêsu yêu Giáo Hội và hiến thân vì Giáo Hội.
H- Tại sao phải nhường nhịn nhau?
T- Vì vợ chồng mỗi người đều có cá tính và những khuyết điểm riêng, đời sống gia đình lại gặp nhiều phức tạp, nên phải nhường nhịn nhau mới khắc phục được khó khăn và giữ được sự an vui trong cửa nhà.
H- Khi xảy ra sự bất thuận vợ chồng phải làm thế nào ?
T- Phải sớm làm hòa với nhau, tuyệt đối không được nghe cha mẹ hay người khác xúi giục mà chia rẽ nhau, vợ chồng một xương một thịt, phúc cùng hưởng họa cùng đau, ai đâu chia sẻ với mình.
H- Bổn phận vợ chồng đối với việc làm ăn phải thế nào ?
T- Người chồng phải đứng đầu việc làm ăn nuôi gia đình, nhưng phải bàn hỏi với bạn mình cho êm đẹp.
H- Của cải trong nhà phải tiêu dùng thế nào?
T- Của cải trong nhà là của chung, vợ chồng phải thỏa thuận với nhau trong việc tiêu dùng sao cho hợp tình hợp lý.
H- Phải quan niệm thế nào về con cái?
T- Phải quan niệm con cái là của Chúa trao cho ta nuôi dưỡng và giáo dục để nên người tốt làm ích cho Giáo Hội và xã hội.
H- Trong thời gian thụ thai người mẹ phải ở thế nào ?
T- Phải siêng năng cầu nguyện cho mình và con mình được an lành hồn xác, phải tránh những việc nặng nhọc có thể tổn hại đến thai nhi trong mình.
H- Sau khi sinh con phải làm thế nào ?
T- Phải sớm lo cho con được rửa tội, thường không để quá một tháng, nếu sảy thai hoặc con yếu quá thì phải rửa tội ngay.
H- Khi con khôn lớn cha mẹ phải làm gì ?
T- Phải tùy tuổi, tùy hoàn cảnh, tùy trình độ tiếp thu mà dạy nó những điều cần trong Đạo.
H- Cha mẹ có được ép con cái kết hôn không?
T- Không được, vì Chúa không ban quyền cho cha mẹ trong vấn đề này. Kinh nghiệm cho biết nhiều hậu quả tai hại xảy ra bởi cha mẹ ép con cái kết hôn trái ý chúng.
H- Để việc giáo dục con cái đem lại kết quả tốt, cha mẹ phải làm gì ?
T- Cha mẹ phải làm gương sáng cho con cái noi theo.
H- Để gia đình hòa thuận an vui và đủ nghị lực vượt qua mọi nghịch cảnh phải làm gì?
T- Phải đọc kinh sáng tối, năng xưng tội hiệp lễ và tuân giữ các giới luật Chúa và Giáo Hội.
Chúa Giêsu lập bảy Nhiệm Tích
Chỉ và sinh ơn ích thiêng liêng
Tẩy trừ tha thứ tội khiên
Ban ơn thêm sức siêu nhiên dồi dào.
Nhiệm tích Rửa Tội
Phép Rửa Tội tha tội Nguyên Tổ
Và tội riêng từ có trí khôn
Ban ơn thánh hóa linh hồn
Cho vào Giáo Hội làm con Chúa Trời.
Vì cần cho hết mọi người
Nên khi khẩn cấp ai ai được làm
Miễn là phải có chủ tâm
Làm như Giáo Hội quen làm xưa nay.
Miệng đọc mô truyền tay đổ nước
Làm thật đúng nghi thức không sai
Cũng cần lựa chọn một người
Khôn ngoan đạo đức hẳn hoi đỡ đầu.
Nhận tên một vị Thánh nào
Để Người bảo trợ chuyển cầu cho ta.
Trẻ em khi mới sinh ra
Phải lo rửa tội sớm là tốt hơn
Còn người đã đến tuổi khôn
Phải tin và dọn linh hồn hẳn hoi.
Khi không lĩnh thụ phép này
Để được cứu rỗi còn hai con đường:
Một là tử đạo can trường,
Hai là mến Chúa vững vàng thiết tha
Phép Rửa tội buộc ta tuyên hứa
Bỏ ma quỷ thờ Chúa tận tình
Sống theo ánh sáng Đức Tin
Giữ ơn thánh hóa vẹn tuyền luôn luôn.
Nhiệm tích Thêm Sức
Thêm Sức là phép ban ơn
Cho ta lĩnh thụ Thánh Thần Ngôi Ba
Ban ơn soi sáng trí ta
Giúp ta hiểu Đạo tránh xa sai lầm
Ban ơn mạnh sức tinh thần
Giúp ta giữ Đạo kiên tâm nhiệt tình.
Muốn Thêm Sức phải dọn mình
Linh hồn sạch tội, học tin điều cần
Sau Thêm Sức phải siêng năng
Học thêm giáo lý tăng cường Đức Tin
Sẵn sàng vì Chúa hy sinh
Sẵn sàng làm chứng Đạo lành khắp nơi.
Nhiệm tích Mình Thánh
Mình Thánh là phép tuyệt vời
Bánh Thành Mình Chúa dưỡng nuôi linh
hồn.
Hồn ta muốn được khoẻ luôn
Siêng năng hiệp lễ là nguồn sức thiêng
Những ai hiệp lễ vẹn tuyền
Được hợp vững bền cùng Chúa Giêsu.
Hiệp lễ tội nặng phải trừ
Kiêng ăn nhịn uống một giờ đừng quên.
Gần hiệp lễ giục lòng tin
Cậy trông yêu mến thực tình ăn năn
Lên hiệp lễ phải nghiêm trang
Đứng quỳ ngay thẳng dịu dàng nết na.
Sau khi Chúa ngự lòng ta
Lúc ấy thật là giây phút linh thiêng
Kính thờ cảm tạ Cha hiền
Hiến dâng hồn xác cầu xin ơn lành,
Quyết tâm mến Chúa tận tình
Giữ ơn nghĩa Chúa trung thành nơi ta.
Nhiệm tích Giải Tội
Phép Giải Tội thứ tha tội lỗi
Phạm từ ngày rửa tội về sau
Dù ta tội lỗi đến đâu
Nhờ phép nhiệm mầu cũng được sạch tinh.
Muốn xưng tội phải xét mình
Tự kiểm chân thành theo các giới răn.
Xét mình rồi phải ăn năn
Tùy theo hai cách hoàn toàn hay không
Ăn năn phải tự tâm hồn
Lo buồn vì đã bội ơn Cha lành
Vì thương Chúa chịu đóng đanh
Vì suy hỏa ngục khiếp kinh hãi hùng.
Quyết tâm chừa tội đến cùng
Vào tòa thú tội khiêm cung thật thà.
Khi linh mục giải tội ta
Ăn năn xin Chúa thứ tha khoan hồng.
Sau khi được giải tội xong
Kịp thời đền tội hết lòng tạ ơn.
Nhiệm tích Xức Dầu
Xức Dầu nhiệm tích bệnh nhân
Tẩy trừ tội lỗi giảm cơn đau phiền
Khi thấy bệnh trở nên trầm trọng
Hoặc già nua sức sống suy tàn
Kịp thời nhắc nhủ bệnh nhân
Đón mời linh mục đến ban phép cần.
Bề ngoài dọn một cái bàn
Phủ khăn đặt tượng nến đèn hai bên
Một bình nước phép đừng quên
Một ly nước lã để bên cạnh bàn
Bề trong cần giúp bệnh nhân
Dọn mình xưng tội như lần kết chung.
Nếu không thể thú xưng tội lỗi
Phải giục lòng thống hối thiết tha
Nên mời thân thuộc gần xa
Vì tình bác ái tới nhà thông công.
Xức Dầu khi lĩnh thụ xong
Bệnh nhân bình tĩnh cậytrông Cha lành
Phó dâng đau đớn của mình
Hợp cùng Chúa chịu khổ hình đóng đinh
Để làm của lễ hy sinh
Lập công đền tội trong tình mến yêu.
Nhiệm tích Truyền Chức
Phép Truyền Chức cho người lĩnh thụ
Được quyền hành và đủ ơn riêng
Để làm nhiệm vụ thiêng liêng
Thờ Chúa uy quyền phục vụ giáo dân.
Chúng ta phải ân cần cầu nguyện
Để Chúa sai thợ đến ruộng Người.
Kính yêu giúp đỡ vâng lời
Theo Hàng Giáo Phẩm trong đời siêu nhiên.
Nhiệm tích Hôn Phối
Hôn Nhân Thiên Chúa lập nên
Từ khi sáng tạo tổ tiên loài người
Đến khi Thiên Chúa Ngôi Hai
Xuống thế làm người để cứu muôn dân
Đoái thương đưa việc hôn nhân
Lên hàng Nhiệm tích ban ơn xác hồn.
Chúa truyền luật vĩnh đơn hôn
Một chồng một vợ luôn luôn trung thành
Dự hôn phải có ý lành
Sản sinh con cái chân thành giúp nhau.
Khi tìm hiểu trước sau phải giữ
Luôn đứng đắn tránh sự không hay
Đừng ham kén chọn sắc tài
Mà quên căn bản là đời đức tin
Đức tin đạo hạnh là nền
Để xây hạnh phúc vững bền hôn nhân.
Để thành hôn cũng cần phải giữ
Là không mắc ngăn trở hôn nhân
Khi ngày hôn lễ tới gần
Linh hồn chuẩn bị ân cần đừng quên.
Vào đời mới phải nên người mới
Mới phần hồn cải tội tu thân
Hai bên khi đã thành hôn
Yêu thương nhường nhịn luôn luôn thực hành.
Dưỡng dục con cái tận tình
Thánh hóa gia đình theo hạnh Thánh Gia.
Phần kết
Đời ta từ lúc sinh ra
Đến ngày lìa thế bao là khó khăn
Chúa thương lập bảy phép cần
Như phương tiếp tế lương thần cho ta.
Chúng ta nguyện thiết tha yêu mến
Và siêng năng tìm đến mạch thiêng
Để bồi dưỡng sức siêu nhiên
Ngày càng vững mạnh tiến lên Quê Trời.
Trước đây đã hai mươi thế kỷ
Thiên Chúa sai một vị sứ thần
Tới Na-za-rét một thành
Vào nhà Trinh nữ hiền lành nết na.
Là Đức Maria đầy phúc
Để báo tin Bà được thụ thai
Và sinh ra một con trai
Chính là Đấng sẽ cứu đời độ nhân.
Đức Bà hỏi sứ thần cho biết
Việc xảy ra chi tiết thế nào?
Bởi vì Bà chỉ ước ao
Giữ mình trinh khiết cốt sao vẹn toàn
Để giải thích thiên thần nói tiếp:
Bà thụ thai do phép Thánh Linh
Sinh con mà vẫn đồng trinh
Vì là Con Chúa cao minh đời đời.
Bà hãy đặt tên này cho trẻ
Là Giêsu Cứu Thế siêu nhiên
Trên trời dưới đất mọi miền
Không tên nào cứu trừ tên của Người.
Đức Bà đáp vâng lời thiên sứ
Vì tôi là tỳ nữ Chúa Trời
Tức thì Thiên Chúa Ngôi Hai
Xuống lòng Trinh nữ làm người như ta
Sau đó Maria vội vã
Đi qua miền núi đá rừng hoang
Thăm I-za-bét họ hàng
Có thai sáu tháng rõ ràng cao niên.
Khi tới nơi, Người liền chào chúc
Chị họ Người cảm xúc lạ lùng
Vì Gioan trẻ trong lòng
Được đầy ơn Chúa nhảy mừng sướng vui
Sau mấy tháng trong đời Thượng vị
Au-gút-tô cai trị Rô-ma
Lệnh truyền dân số kiểm tra
Phải về nguyên quán để mà khai tên.
Giuse thuộc tổ tiên Đa-vít
Đang ở Na-za-rét làm ăn
Với Maria bạn trăm năm
Về Be-lem chốn xa xăm quê nhà.
Khi tới nơi trời vừa xẩm tối
Maria lại tới ngày sinh
Giuse cố gắng tận tình
Tìm nơi tạm trú đêm thanh cho Người
Nhưng quán trọ không nơi nào chứa
Đành phải ra hang đá ngoại ô
Là nơi quen nhốt chiên bò
Nghèo hèn hôi hám gió lùa sương sa.
Nửa đêm Maria Trinh nữ
Sinh Hài Nhi cứu độ muôn dân
Bà ôm con bọc trong khăn
Đặt trên máng cỏ ân cần dấu yêu.
Trong miền đó có nhiều mục tử
Đang thức đêm canh giữ đoàn chiên
Sứ thần hiện đến báo tin
Hôm nay Cứu Chúa giáng sinh làm người.
Nhiều thiên sứ từ trời bay xuống
Hợp cùng nhau chúc tụng vang lời
Sáng danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
Sau lúc đó thiên thần biến khỏi
Đoàn chăn chiên vội tới Be-lem
Họ liền thấy một trẻ em
Bọc khăn nằm máng ở bên Mẹ Người
Họ vồn vã ngỏ lời thăm hỏi
Đoạn ra về phấn khởi vui mừng
Đức Bà sau đó hiến dâng
Con trong Đền Thánh để vâng luật truyền.
Si-mê-on cũng liền vào tới
Được ơn trên cụ nói tiên tri
Về tương lai Chúa Hài Nhi
Cùng về những nỗi sầu bi Mẹ Người.
Những ngày đó có ngôi sao lạ
Dẫn ba nhà học giả phương Đông
Đến thờ lạy Chúa Hài Đồng,
Tiến dâng mộc dược, vàng dòng, nhũ hương.
Ở Sa-lem tiểu vương Hê-rốt
Sợ Hài Nhi sẽ đoạt ngôi mình
Ông truyền giết trẻ sơ sinh
Hai năm trở xuống toàn thành Be-lem
Nhưng thiên sứ nửa đêm hiện tới
Bảo Giuse chỗi dậy kịp thời
Đem Con trẻ với Mẹ Người
Trốn sang Ai-cập ở nơi an toàn.
Mấy năm sau sứ thần lại dặn
Hãy trở về nguyên quán bản hương
Giuse mau mắn lên đường
Về Na-za-rét xóm làng quê xưa.
Kể từ đó tới ba mươi tuổi
Trẻ Giêsu sống với gia đình
Nguyện cầu sớm tối nhiệt tình
Vâng lời cha mẹ tận tình con ngoan.
Nghề thợ mộc làm ăn sinh sống
Cam khó nghèo chịu đựng gian nan
Càng thêm tuổi lại càng ngoan
Trước người trần thế, trước nhan Chúa Trời.
Năm Giêsu lên mười hai tuổi
Đi thủ đô cùng với Mẹ Cha
Để mừng đại lễ Vượt Qua
Sau khi lễ tất ông bà chia tay.
Đi ngày đường mới hay lạc Chúa
Trở lại ngay vất vả tìm tòi
Ba ngày sau mới thấy Người
Hỏi nghe lẽ Đạo ở nơi Đền thờ.
Mẹ Người nói tựa như than thở:
“Con Mẹ ôi ! Con có biết không ?
Mẹ Cha lo lắng tìm Con
Ba ngày ròng rã chẳng còn thiết chi !”
“Tìm tòi Con làm gì hở Mẹ ?
Việc Cha Con, Con để tâm lo
Ông Bà không biết đó ư”
Mẹ Người ghi nhớ suy tư trong lòng.
Đoạn Chúa về sống cùng Cha Mẹ
Qua tháng ngày lặng lẽ yên vui.
(Đứng đọc kinh Tin)
+ + +
Đến năm tuổi độ ba mươi
Chúa ra khởi sự giảng lời Phúc Âm.
Để chuẩn bị nhân tâm đón Chúa
Có Gio-an Tẩy giả tiền hô
Bắt đầu trước Chúa Kitô
Giảng khuyên dân chúng chăm lo việc hồn.
Ông Gio-an một hôm gặp Chúa
Đến xin làm phép rửa cho Người
Sau khi lên khỏi nước rồi
Bỗng nhiên Người thấy màn trời mở ra.
Thánh Linh Chúa Ngôi Ba cực trọng
Tựa chim câu đỗ xuống trên Người
Chúa Cha lên tiếng từ trời :
“Đây Con yêu dấu đời đời của Ta”.
Hiện tượng đó thật là khôn tả
Hàm ý thiêng cao cả tuyệt vời
Giêsu Chiên Đức Chúa Trời
Gánh tội loài người tự nguyện hy sinh.
Rồi sau đó Thần Linh Thiên Chúa
Đưa Ngài lên hoang địa nhịn chay
Sa-tan đến cám dỗ Ngài
Nhưng Ngài chống cự nó ngay tức thì.
Rời hoang địa Chúa đi giảng Đạo
Khuyên mọi người cải tạo tâm hồn
Bởi vì Nước Chúa đã gần
Hãy mau thống hối canh tân cuộc đời.
Một hôm Chúa lên ngồi trên núi
Giảng mở đầu Tám mối phúc chân:
“Phúc ai nghèo khó tinh thần
Bởi vì Nước Chúa là phần của riêng.
Phúc cho ai dịu hiền hòa nhã
Được Đất thiêng làm của vững bền
Phúc ai khóc lóc ưu phiền
Bởi vì sẽ được ủi an dồi dào
Phúc cho ai khát khao công lý
Được trên ban phỉ chí no đầy.
Phúc ai hay xót thương người
Được ơn thương xót từ trời xuống cho
Phúc ai có tâm tư trong sạch
Được thấy Chúa nguồn mạch tốt xinh
Phúc ai xây dựng hòa bình
Được làm Con Chúa quang vinh đời đời.
Phúc ai vì Đạo ngay chịu khổ
Được Nước Trời làm sở hữu riêng”.
Ai nghe Chúa cũng ngạc nhiên
Thấy Người như Đấng tự quyền phán ra.
Nhờ Người dạy chúng ta ý thức
Thiên Chúa là Cha cực khoan nhân
Bởi tình thương xót vô ngần
Đã cho Con Một xuống trần cứu ta.
Được sạch tội giao hòa với Chúa
Làm Con Ngài, ơn nghĩa bao la
Ta cần mến Chúa như cha
Yêu thương đồng loại như là anh em
Cùng ôm ấp một niềm tin tưởng
Mong ngày sau được hưởng trường sinh
Chúa đòi ta ở trọn lành
Theo gương Cha Cả hiển vinh trên trời.
Luật xưa cấm giết người đồng loại
Chúa cấm luôn cả mọi căm thù
Luật xưa cấm việc dâm ô
Chúa còn cấm cả ước mơ chẳng lành
Nếu con mắt ta sinh dịp tội
Hãy khoét đi cho khỏi hiểm nguy
Vì lành hai mắt ích gì
Nếu sa hỏa ngục còn chi tốt lành.
Xưa cho phép đoạn tình phu phụ
Nay Chúa truyền vĩnh thú đơn hôn
Một chồng một vợ luôn luôn
Trọn đời chung sống vui buồn đói no
Người xưa bảo ghét thù yêu bạn
Chúa không cho giới hạn hẹp hòi
Chúa truyền yêu hết mọi người
Nguyện cầu cho cả những ai địch thù.
Khi ta đến bàn thờ dâng lễ
Mà nhớ ra có kẻ mất lòng
Hãy về hòa giải cho xong
Rồi sau dâng lễ mới trông nhận lời.
Đong đấu nào cho người đồng loại
Chúa sẽ đong đấu ấy cho ta
Theo lời kinh nguyện Lạy Cha
Thứ tha sẽ được thứ tha nhân từ.
Phải ra sức làm cho người khác
Những sự ta mong ước cho mình
Và đừng chủ ý thi hành
Sự ta không muốn ai giành cho ta.
Phải ăn ở thật thà ngay thẳng
Nhưng cũng cần tinh sáng khôn ngoan
Những ai vất vả nhọc nhằn
Hãy tìm nơi Chúa ủi an hộ phù
Học với Chúa hiền từ khiêm nhượng
Tâm hồn ta sẽ hưởng bình an
Bởi vì ách Chúa dịu dàng
Gánh Người êm ái nhẹ nhàng biết bao.
Ai cậy mình trước sau bị hạ
Ai hạ mình được Chúa nâng lên
Được mời đừng chọn ngồi trên
Kẻo sau tụt xuống bị thiên hạ cười.
Chúa là sáng những ai theo Chúa
Khỏi tối tăm không sợ lạc sai
Đất trời biến chuyển không ngơi
Nhưng lời Chúa dạy đời đời không qua
Những lời Chúa nếu ta tuân giữ
Sẽ như người thực sự khôn ngoan
Xây nhà trên đá an toàn
Mưa tuôn không sợ, suối tràn không lo.
(Đứng đọc kinh Cậy)
+ + +
Để dân chúng tiếp thu cho dễ
Có nhiều lần Chúa kể dụ ngôn
Nghĩa là so sánh giản đơn
Rút trong đời sống bình dân hàng ngày.
Với mục đích trình bày giáo lý
Sao cho vừa tâm trí mọi người
Đơn sơ nhưng lại tuyệt vời
Đưa ra từ đất tới nơi siêu phàm.
Như dụ ngôn vua làm tiệc cưới
Cho kẻ đi mời gọi khách ăn
Tượng trưng Thiên Chúa khoan nhân
Gọi ta vào Đạo ái ân muôn trùng.
Dụ ngôn những cỏ lùng với lúa
Nhằm nói lên lành dữ sống chung
Dữ nhờ gương sáng đổi lòng
Lành qua chịu đựng lập công lâu dài
Dụ ngôn một chàng trai phung phá
Nhằm nói lên Cha Cả khoan dung
Thương người tội lỗi vô cùng
Kiên tâm chờ đón sẵn lòng thứ tha.
Chúa truyền dạy vào qua cửa hẹp
Cửa rộng đưa tới kiếp trầm luân
Nếu ta lợi cả trần gian
Linh hồn thiệt mất, hỏi rằng ích chi?
Người ta sẽ lấy gì thay thế
Linh hồn mình nếu để hư vong
Chúa truyền ta phải gắng công
Sống đời hoàn thiện mới trông Thiên đàng.
Muốn theo Chúa phải mang khổ giá
Từ bỏ mình yêu Chúa mọi ngày
Vững tin cậy Chúa an bài
Thương ta hơn cả chim trời cỏ hoa.
Phải cầu nguyện thiết tha bền bỉ
Xin sẽ cho, gõ sẽ mở ra
Của Xê-za trả Xê-za
Những gì của Chúa thì ta trả Người.
Không ai được làm tôi hai chủ
Coi Chúa Trời tiền của như nhau
Bởi vì tiền của ở đâu
Lòng ta ở đó lo âu đêm ngày.
Phải tìm Nước Chúa Trời trước nhất
Còn sự gì người tất thêm cho
Của trần đừng mải tích thu
Mối ăn mọt gặm công phu phí hoài.
Phải tỉnh thức như người đầy tớ
Đợi chủ về cửa mở ngay ra
Bởi vì Chúa viếng thăm ta
Như người kẻ trộm đêm khuya bất thần.
Để làm chứng cho dân tin tưởng
Nhận biết Người là Đấng Cứu Tinh
Chúa Kitô lấy quyền mình
Làm nhiều phép lạ uy danh lẫy lừng.
Bao người bệnh vui mừng được khỏi
Mù được trông phong hủi được lành
Phong ba tức khắc thanh bình
Chính Ngài chết đoạn phục sinh huy hoàng.
Có lần Chúa cũng loan báo trước
Sự tương lai vượt sức trí ta
Việc Sa-lem bị Rô-ma
Bao vây thiêu hủy biến ra tro tàn.
Việc Phê-rô ba lần chối Chúa
Việc Người qua khổ giá phục sinh
Những điềm rùng rợn khiếp kinh
Báo ngày chung thẩm công minh sau này
Nhưng đặc biệt tương lai Giáo Hội
Luôn vững bền vượt mọi thời gian
Mặc cho hỏa ngục cản ngăn
Không ngừng tiến triển lan tràn khắp nơi.
Để minh chứng những lời Chúa dạy
Còn bao gương vĩ đại Chúa làm
Đời Người sống rất siêu phàm
Không ai bắt được lỗi lầm cỏn con.
Linh hồn Chúa tựa vườn thơm nức
Trăm thứ hoa nhân đức tuyệt vời
Kính yêu Cha Cả trên trời
Mến thương nhân loại trọn đời hy sinh.
Vì Chúa biết Tin Lành cứu độ
Cần có người công bố khắp nơi
Chúa cầu nguyện suốt đêm dài
Sáng ra Chúa chọn mười hai Sứ Đồ.
Trong số đó Phê-rô ngư phủ
Chúa đặt làm nguyên thủ Giáo đoàn
Tựa như tảng đá vững vàng
Sức quyền hỏa ngục không làm chuyển lay.
Về những kẻ nghe Lời khuyên giảng
Ta nhận ra nhiều hạng khác nhau
Dân nghèo lao động khổ đau
Vui nghe lời Chúa kêu cầu Chúa thương.
Bọn Biệt phái và hàng Trưởng tế
Cùng những người vai vế trong dân
Lòng đầy tham vọng phàm trần
Họ ghen ghét Chúa chủ tâm giết Người.
Ba năm Chúa giảng Lời hằng sống
Tựa như người gieo giống tung rơi
Quả sinh nhiều ít tùy nơi
Vệ đường, đá sỏi, bụi gai, đất mầu.
Người thiện chí tiếp thu Lời Chúa
Đem thực hành sinh quả gấp trăm
Còn người xấu lại để tâm
Cố tình từ chối Phúc Âm Nước Trời.
(Đứng đọc kinh Kính Mến)
+ + +
Cuộc đời Chúa những ngày sau hết
Đã diễn ra nhiều việc phi thường
Đớn đau bi thảm khôn lường
Dạt dào lênh láng tình thương vô bờ.
Ngày thứ nhất Chúa cho môn đệ
Đến làng kia cốt để mượn lừa
Chúa cưỡi lên vẻ hiền từ
Tiến đi về phía đền thờ Sa-lem
Đám quần chúng với niềm hy vọng
Ra rước Ngài long trọng tưng bừng
Người vẫy lá kẻ reo mừng
Đấng nhân danh Chúa đến cùng chúng tôi.
Tới gần thành Chúa rơi hàng lệ
Thương xót dân sau sẽ điêu linh
Vì không biết Chúa thăm mình
Vì không đón nhận Tin lành bằng yên
Đến thứ năm Chúa truyền môn đệ
Đi dọn nơi ăn lễ Vượt Qua
Theo như luật cũ đề ra
Nhớ ngày giải phóng cha ông đã truyền
Trước khi ăn Chúa liền chỗi dậy
Rửa chân cho hết thảy Tông Đồ
Việc xong Chúa nói lý do
Để cho môn đệ làm như Chúa làm
Trong bữa ăn Chúa cầm lấy bánh
Truyền phép thành Mình Thánh của Người.
Rồi nâng chén rượu trên tay
Chúa truyền phép rượu thành ngay Máu
Người.
Máu Tân ước đời đời vĩnh cửu
Đổ chan hòa để cứu muôn dân
Khỏi vòng nô lệ tà thần
Khỏi sa hỏa ngục trầm luôn muôn đời.
Các Tông Sứ vâng lời Chúa dạy:
“Đây Mình Ta nhận lấy mà ăn
Việc này sau phải ân cần
Làm lại nhiều lần để nhớ đến Ta”.
Đoạn rồi Chúa thiết tha yên ủi
Các Tông Đồ trước nỗi chia ly
Mai ngày Chúa sẽ khuất đi
Thánh Linh sẽ đến phù trì ủi an.
Các ông buồn, thế gian phấn khởi
Nhưng cơn buồn sẽ đổi thành vui
Các ông cần hợp với Người
Như cành hợp với thân cây vững bền.
Điều răn mới Chúa truyền Môn Đệ
Yêu mến nhau như thể Chúa yêu
Đó là dấu hiệu cao siêu
Chứng minh Đạo Chúa hơn nhiều tài ba
Môn đệ có Giu-đa phản bội
Định nộp Người cầu lợi riêng tư
Hắn đi gặp gỡ kẻ thù
Bàn mưu bắt Chúa sao cho yên hàn.
Ăn bữa đoạn, ngày tàn đêm tới
Chúa liền đi đến núi Cây Dầu
Sứ đồ lẽo đẽo theo sau
Chúa truyền tỉnh thức nguyện cầu thiết tha.
Để kiên trì không sa cám dỗ
Nhẹ lòng thần, lòng thú nặng nề
Chọn ba môn đệ cùng đi
Chúa vào vườn Giệt-ma-ni nguyện cầu.
Linh hồn Chúa khổ sầu đến chết
Mình mồ hôi lẫn huyết tuôn ra
Chúa càng cầu nguyện thiết tha
Khẩn van xin Đức Chúa Cha khoan hồng
Lời cầu khẩn hòa cùng nước mắt
Nguyện Chúa Cha thương cất chén này
Nhưng đừng theo ý Con đây
Một theo Thánh ý Cha thời tốt hơn.
Đang khi Chúa phải cơn hấp hối
Các Tông Đồ mệt mỏi lo buồn
Mắt nặng trĩu ngủ bên vườn
Mặc dù Chúa bảo thức luôn với Người.
Một Thiên sứ từ trời hiện xuống
Yên ủi Người anh dũng hiến thân
Lát sau thấy một đội quân
Giu-đa hướng dẫn bất thần tới nơi.
Hắn tiến lại hôn Người làm hiệu
Cho chúng bắt và điệu Người đi
Sứ đồ khi ấy khác gì
Đoàn chiên mất chủ sợ nguy trốn liền.
Bắt Người đoạn, thoạt tiên chúng điệu
Đến nhà ông trưởng cựu An-na
Rồi sang giáo trưởng Cai-pha
Ông này đứng dậy để tra vấn Người.
“Đây, nhân danh Chúa Trời hằng sống
Ông phải khai cho chúng ta tường:
Ông Con Thiên Chúa thật chăng?”
Chúa liền tuyên bố rõ ràng công khai:
“Sự thật đúng như ngài nói đấy
Đến ngày sau sẽ thấy Con Người
Ngự bên hữu Đức Chúa Trời
Trên mây hiện xuống sáng ngời uy linh”.
Cai-pha xé áo mình mà nói:
“Hắn lộng ngôn cần hỏi gì thêm!”
Mọi người phụ họa kêu lên:
“Hắn ta đáng chết để đền lộng ngôn!”
Suốt đêm bọn ác ôn canh giữ
Thay đổi nhau làm khổ nhục Người
Phê-rô đêm ấy bồi hồi
Vào sân giáo trưởng đến ngồi sưởi chung
Một đầy tớ hỏi ông có phải:
Là môn đệ Người ấy hay không ?
Phê-rô liền sợ cuống cuồng
Chối thề mình chẳng biết ông bao giờ.
Ngay lúc đó gà vừa cất gáy
Nhắc Phê-rô nhớ lại lời Thầy
Ông liền thổn thức ra ngoài
Ăn năn khóc lóc đắng cay vô cùng.
Rồi sáng sớm hội đồng Do-Thái
Quyết nghị rằng: Người phải hy sinh
Nhưng mà họ phải đệ trình
Rô-ma xét duyệt thi hành mới xuôi.
Họ đem Chúa đến nơi Phi-lát
Là toàn quyền thay mặt Rô-ma
Ông này khi đã thẩm tra
Thấy rằng vô tội muốn tha cho Người.
Để dân bớt cáo nài đe dọa
Phi-lát sai đem Chúa đánh đòn
Dưới làn roi vọt ác ôn
Mình Người rách nát, tâm hồn đắng cay
Chúng còn lấy vòng gai sắc nhọn
Đội đầu Người dữ tợn khôn lường
Chúng chơi tấn kịch tôn vương
Quỳ gối nhạo rằng: “Vạn tuế Đức Vua”.
Đoạn vây Chúa chúng đua nhau đánh
Nhổ vào nhan cực thánh của Người
Giật que sậy Chúa cầm tay
Đập trên đầu Chúa cho gai lọt vào.
Phi-lát muốn làm sao tha Chúa
Đem Người lên trước cửa công đường
Thân hình thiểu não đáng thương.
“Đây là Người ấy quốc Vương các người”
Dân nghe thấy cáo nài la hét:
“Đem đóng đanh, đem giết nó đi!”
“Ông ta có tội tình gì ?”
“Hắn ta xưng Đế, tội chi nặng bằng!”
Vì thấy chúng hung hăng quá độ
Phi-lát đành nhượng bộ cho xuôi
Rửa tay đoạn phó trao Người
Cho quân lính điệu lên đồi Can-vê.
Chúa im lặng vác cây Thập Giá
Sức kiệt hao gục ngã nhiều lần
Đến nơi Chúa bị lột trần
Tứ chi đanh đóng, toàn thân phơi bày.
Dưới tia nắng mặt trời thiêu đốt
Ruồi muỗi bâu châm hút máu hồng
Miệng khô cổ khát vô cùng
Tai nghe chế giễu mắt trông địch thù.
Chúa đau khổ mặc dù hết sức
Nhưng Người cam chịu nhục đến cùng
Người xin Cha Cả khoan dung
Thứ tha cho họ vì chưng họ lầm.
Maria đứng gần Thập Giá
Để cảm thông cùng Chúa hiến thân
Vâng nghe lời Chúa trao ban
Nhận làm Từ Mẫu Gio-an sứ đồ.
Vào quãng độ ba giờ chiều đó
Chúa gục đầu dâng phó linh hồn
Trong tay Cha Cả chí tôn
Đoạn kêu lớn tiếng đau buồn tắt hơi.
Đất rung động mặt trời mất sáng
Màn đền thờ xé thẳng làm hai
Như thương Chúa cả muôn loài
Hiến thân chịu chết cho người trần gian
Một tên lính đứng gần thập giá
Hắn thấy là Người đã tắt hơi
Lấy đòng đâm thủng Tim Người
Máu hòa với nước tức thời chảy ra.
Chiều tối đến dăm ba thân thích
Tháo xác Người rửa sạch vết thương
Táng trong huyệt đá vội vàng
Địch thù cắt lính canh hang táng Người.
(Quỳ đọc kinh Ăn năn tội)
+ + +
Ngày thứ nhất lúc trời chưa rạng
Một Thiên Thần mặt sáng chói lòa
Từ trời xuống lật đá ra
Lính canh khiếp ngã tưởng là chết ngay
Mấy phụ nữ đồng thời tới đó
Với chủ tâm thăm mộ thánh Người
Sứ Thần bảo các bà hay:
Chúa vừa sống lại ở đây không còn.
Mau loan báo cho môn đệ biết
Chúa Phục sinh, thần chết bại rồi
Các ông sẽ được thấy Người.
Nỗi buồn tiêu tán, niềm vui chan hòa.
Chiều tối ấy trong nhà đóng kín
Chúa Kitô hiện đến bất thần
Chúc chào môn đệ bình an
Trao quyền tha tội ân ban từ Trời.
Sau buổi đó nhiều nơi nhiều lúc
Chúa Kitô tiếp tục hiện ra
Có lần cho phép Tô-ma
Sờ tay vào Chúa để mà vững tin
Lần khác Chúa hiện trên bờ biển
Hỏi Phê-rô có mến Chúa không ?
Phê-rô đượm vẻ đau buồn
Khiêm nhường thưa lại, rằng: “Con mến
Thầy”.
Chúa vui vẻ bỏ ngay tội cũ
Đặt ông làm Mục Tử Đoàn Chiên
Chiên con chiên mẹ mọi miền
Đều ở dưới quyền thủ trưởng Phê-rô
Bốn mươi ngày kể từ sống lại
Chúa Kitô lại tái hiện ra
Đưa môn đệ tới đồi kia
Dặn dò lần trót trước khi lên trời:
“Chúng con đi khắp nơi giảng dạy
Rửa tội cho hết thảy mọi người
Từ nay cho đến hết đời
Ta ở mọi ngày với chúng con liên”.
Rồi sau đó Chúa lên khỏi đất
Cho tới khi Người khuất trong mây
Sứ đồ ngây ngất nhìn trời
Thiên Thần hiện đến bảo thôi trở về.
Chúa vừa mới khuất đi khỏi thế
Ngày tận chung Người sẽ tái lâm
Trên mây sáng láng vô ngần
Thưởng công phạt tội người trần khắp nơi.
+ + +
Phần kết
(Đứng đọc)
Chúng ta học cuộc đời của Chúa
Đều thấy gương muôn thuở sáng ngời
Chúa sinh làm mốc chia đôi
Thời gian lịch sử mọi đời nhớ ghi.
Chỉ có Chúa kiên trì thực hiện
Một cuộc đời thánh thiện siêu phàm
Chỉ lời giáo huấn Phúc Âm
Cao siêu vĩnh cửu gieo mầm Phục sinh.
Chỉ có Chúa hiến mình tuyệt đối
Vì xót thương chuộc tội cho đời
Chỉ mình Chúa đã chết rồi
Tự quyền sống lại đúng lời tiên tri.
Chỉ có Chúa khuất đi khỏi thế
Vẫn được hằng yêu quý khắp nơi
Với thời gian thảy mờ phai
Giêsu cứu thế đời đời vinh quang.
CHƯƠNG TRÌNH TRẺ EM XƯNG TỘI – HIỆP LỄ LẦN ĐẦU
Các kinh phải học:
Dấu Thánh giá – Kinh Tin – Kinh Cậy – Kinh Kính Mến – Kinh Ăn năn tội – Kinh Lạy Cha – Kinh Kính Mừng – Kinh Sáng Danh – Kinh Xin soi sáng – Kinh Mười điều răn – Kinh Sáu điều răn – Kinh Dọn mình hiệp lễ – Kinh Cám ơn Hiệp lễ.
Tôi tin một Chúa Ba Ngôi
Dựng nên vạn vật đất trời bao la
Ngôi Nhất là Đức Chúa Cha
Ngôi Hai Con Chúa, ngôi Ba Thánh Thần
Ngôi Hai sinh xuống gian trần
Làm người chịu chết hiến thân cứu đời
Chết rồi sống lại lên trời
Sau này lại xuống sáng ngời uy linh
Thưởng lành phạt dữ công bình
Lành lên hưởng phúc trường sinh thiên
đàng
Dữ vào hỏa ngục khóc than
Ở cùng ma quỷ nghiến răng đời đời.
Thưa cha, con xưng tội lần đầu, con đã xét mình và ăn năn tội rồi, bây giờ con đến xưng tội:
Thứ nhất: Con lười đọc kinh mỗi tháng độ 10 lần.
Thứ hai: Con nói truyện vô phép trong nhà thờ mỗi tháng độ 10 lần.
Thứ ba: Con không dự lễ ngày Chúa nhật mỗi tháng độ 2 lần.
Thứ bốn: Con không vâng lời cha mẹ mỗi tháng độ 10 lần.
Thứ năm: Con cãi đánh nhau mỗi tháng độ 10 lần.
Thứ sáu: Con nói tục mỗi tháng độ 10 lần.
Thứ bảy: Con ăn cắp mỗi tháng độ 2 lần.
Thứ tám: Con nói dối mỗi tháng độ 10 lần.
Thưa cha, ấy là bấy nhiêu tội con nhớ, còn tội nào quên sót, con muốn xưng cả, xin cha xét và giải tội cho con.
Lưu ý: Đây chỉ là bản mẫu cơ bản, giúp các em dựa vào đó để xét mình và xưng tội lần đầu. Sau này, khi các em khôn lớn, các em sẽ tự ý xét mình theo các giới luật của Thiên Chúa và Giáo Hội, cùng những việc bổn phận phải làm. Thấy sai lỗi điều gì, các em sẽ thành thực thú xưng, còn điều gì không sai lỗi thì thôi.