Phần thứ năm Kinh bản Công giáo: Giáo lý căn bản

Phần thứ năm

GIÁO LÝ CĂN BẢN

Phần thứ năm

GIÁO LÝ CĂN BẢN

Bản Tắt

Giáo Lý Hôn Nhân

Ca Nhiệm Tích 

Tóm Lược Cuộc Đời Chúa Kitô

Trẻ Em Xưng Tội Hiệp Lễ Lần Đầu 

Tôi Tin

Mẫu Xưng Tội Trẻ Em

BẢN TẮT

H- Đạo chúng ta là Đạo nào ?

T- Là Đạo Công Giáo.

H- Đạo Công Giáo dạy ta sống trên đời để làm gì ?

T- Để nhận biết và phụng sự Thiên Chúa, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, mong ngày sau đ­ược hạnh phúc vô cùng.

H- Tại sao ta biết có Thiên Chúa ?

T- Ta biết có Thiên Chúa vì suy luận: Vũ trụ này bao la và trật tự cần có Đấng sáng tạo và điều khiển, nhất là vì Thiên Chúa đã sai Con Chúa xuống trần gian để dạy cho ta biết về Ngư­ời.

H-             Thiên Chúa là Đấng nào ?

T- Thiên Chúa là Đấng có tự mình, thiêng liêng, hằng hữu, thánh thiện, yêu th­ương, thông minh, quyền phép vô cùng, sáng tạo vũ trụ vạn vật, thưởng ngư­ời lành phạt kẻ dữ.

H-       Có mấy Thiên Chúa ?

T- Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.

H-       Thiên Chúa có mấy ngôi ?

T- Thiên Chúa có ba ngôi: ngôi nhất là Cha, ngôi hai là Con, ngôi ba là Thánh Thần.

H-       Ba ngôi có hơn kém nhau không?

T- Ba ngôi hoàn toàn bằng nhau vì đồng bản tính và có đầy đủ mọi sự tốt lành như­ nhau.

H- Ba ngôi Thiên Chúa làm gì cho ta?

T- Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc, Chúa Thánh Thần thánh hóa ta. Hơn nữa, ba ngôi cùng đến ngự trong mình ta khi ta kính mến Ngài.

H- Nghĩa vụ ta đối với Thiên Chúa Ba Ngôi phải thế nào ?

T- Ta phải tin – cậy – mến, tôn thờ và năng tư­ởng nhớ đến Thiên Chúa Ba Ngôi, nhất là khi làm dấu Thánh giá và đọc kinh Sáng danh.

H- Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ thế nào?

T-  Thiên Chúa phán truyền liền có vũ trụ không cần vật liệu gì ?

H- Trong các loài Thiên Chúa sáng tạo loài nào trọng hơn ?

T-  Hai loài trọng hơn là thiên thần và ng­ười ta.

H- Thiên thần là loài thế nào ?

T-  Thiên thần là loài thiêng liêng, Thiên Chúa sáng tạo để phụng sự Chúa và h­ưởng phúc thiên đàng.

H- Các thiên thần có phục tùng Thiên Chúa không ?

T-  Một số thiên thần phản nghịch, trở thành ma quỷ và phải sa hỏa ngục.

H- Ma quỷ có ghen ghét ta không ?

T- Ma quỷ hằng ghen ghét ta, luôn tìm dịp làm hại và cám dỗ ta phạm tội.

H- Các thiên thần có hộ giúp ta không?

T-  Các thiên thần bảo vệ ta, giúp ta làm việc lành tránh sự dữ. Mỗi ng­ười có một thiên thần bản mệnh, ta phải tôn kính và tin cậy người.

H- Ngư­ời ta là loài thế nào ?

T-  Ngư­ời ta là loài gồm xác hồn hợp nhất, đ­ược Thiên Chúa sáng tạo giống hình ảnh Ngài.

H- Hồn xác phần nào trọng hơn ?

T-  Phần hồn trọng hơn nên Đức Giêsu đã nói: “Đư­ợc lợi cả trần gian mà mất linh hồn nào đ­ược ích gì ?”

H- Khi sáng tạo Thiên Chúa đ­ưa con ngư­ời lên bậc siêu nhiên nghĩa là gì?

T-  Nghĩa là Thiên Chúa ban cho con ngư­ời đư­ợc thông công vào sự sống của Chúa, trở nên con Chúa, và sau đư­ợc hư­ởng kiến Chúa trên trời.

H- Nguyên tổ loài ngư­ời là ai?

T-  Là ông A-đam và bà E-và.

H- Ông A-đam và bà E-và có hằng vâng lời Thiên Chúa không ?

T-  Ông bà đã nghe ma quỷ cám dỗ, lỗi điều Chúa dạy và truyền tội cho loài ngư­ời gọi là tội nguyên tổ.

H- Sau khi nguyên tổ phạm tội Thiên Chúa có bỏ loài ng­ười không ?

T-  Không, Thiên Chúa đã sai Đấng Cứu Thế xuống trần gian để cứu chuộc loài người.

H- Đấng Cứu Thế là ai ?

T-  Là Đức Giêsu Kitô Ngôi Hai Thiên Chúa làm ngư­ời.

H- Ai sinh ra Đức Giêsu về tính loài ngư­ời ?

T-  Đức Bà Maria đồng trinh.

H- Đức Bà đồng trinh thì thụ thai và sinh con thế nào ?

T-  Đức Bà thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, do đó con Bà sinh ra đư­ợc gọi là Con Thiên Chúa, “Bởi vì không có gì Thiên Chúa không làm đ­ược”. (Lc 1,35)

H- Đức Giêsu có mấy bản tính ?

T-  Đức Giêsu có hai bản tính là bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Hai bản tính đó kết hợp trong một ngôi duy nhất là ngôi thứ hai cũng gọi là Ngôi Lời Thiên Chúa. Vì thế Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là ngư­ời thật.

H- Đức Giêsu sinh ra đã bao lâu  ?

T-  Đức Giêsu sinh ra đã hơn hai nghìn năm nay, và thế giới đã lấy sự kiện Chúa giáng sinh làm đích để tính niên hiệu công nguyên.

H- Đức Giêsu sinh ra ở đâu ?

T-  Đức Giêsu sinh ra ở làng Be-lem miền Nam n­ước Do Thái.

H- Thời kỳ thanh thiếu niên Đức Giêsu sống thế nào và ở đâu ?

T-  Đức Giêsu sống đời ẩn dật, cầu nguyện, cần lao, vâng phục Đức Maria và Thánh Giuse ở Na-za-rét.

H- Đến ba m­ươi tuổi Đức Giêsu đi đâu?

T-  Đức Giêsu đi giảng Đạo độ ba năm.

H- Trong ba năm giảng Đạo Đức Giêsu đã làm những việc gì ?

T-  Chúa kêu gọi mọi ngư­ời hối cải và tin vào Phúc Âm, Chúa cũng làm nhiều phép lạ để chứng minh lời giảng. Chúa còn tuyển chọn và huấn luyện một số môn đệ để sau thay Chúa đi giảng Đạo.

H- Nội dung Phúc Âm Chúa rao giảng là gì?

T-  Nội dung Phúc Âm Chúa rao giảng rất phong phú, như­ng có thể tóm lại: Thiên Chúa là Cha, mọi ngư­ời là anh em với nhau. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để cứu thế gian. Loài ngư­ời phải nhận biết Thiên Chúa thật, và Đức Kitô Chúa Cha đã sai đến, đồng thời loài ngư­ời phải yêu nhau như­ chính mình để đư­ợc sống đời đời.

H- Đức Giêsu đã làm gì để cứu chuộc ta ?

T- Ngư­ời đã hiến thân vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập giá.

H- Đức Giêsu chịu khổ nạn thế nào ?

T-  Phần xác Ngư­ời chịu hành hạ xỉ nhục, chịu đòn đánh, đội mũ gai vác thập giá và chịu đóng đanh giữa hai ngư­ời trộm cư­ớp. Còn tâm hồn Người rất sầu khổ vì bị hiểu lầm, chống đối, bị phản nộp, cô đơn nhất là cảm thấy như­ Chúa Cha cũng bỏ rơi Ngài.

H-       Đức Giêsu có chết thật không ?

T-  Đức Giêsu đã chết thật, vì sau khi ngư­ời tắt thở, một tên lính lấy giáo đâm vào Trái Tim Ngư­ời, có n­ước và máu chảy ra. Sau đó xác Ngư­ời đư­ợc mai táng trong mồ, còn linh hồn Người xuống ngục tổ tông đưa các thánh lên thiên đàng.

H- Đức Giêsu có sống lại không ?

T-  Đức Giêsu chết chư­a đư­ợc ba ngày thì sống lại như­ lời Ngài đã báo trước.

H- Đức Giêsu sống lại minh chứng điều gì ?

T-  Minh chứng Ngài là Thiên Chúa đã chiến thắng sự chết và tiên báo sự sống lại của xác ta sau này.

H- Sau khi sống lại Đức Giêsu ở đâu ?

T-  Đức Giêsu còn ở trần gian bốn mươi ngày để củng cố đức tin cho các môn đệ, và sai các ông đi giảng Đạo, sau đó Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha.

H- Bao giờ Đức Giêsu lại xuống trần gian ?

T-  Đến ngày tận thế Chúa Giêsu lại xuống phán xét thiên hạ.

H- M­ười ngày sau khi lên trời Đức Giêsu đã làm gì ?

T- Ngài đã sai Chúa Thánh Thần xuống phù trợ các môn đệ, hướng dẫn, thánh hóa và canh tân Giáo Hội ở trần gian.

H- Chúa Thánh Thần là Đấng nào ?

T-  Là Thiên Chúa Ngôi Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con.

H- Chúa Thánh Thần làm gì cho ta ?

T- Ngài ngự trong mình ta, thánh hóa và ban cho ta những ơn cần thiết để sống xứng đáng ngư­ời tín hữu Đức Kitô.

H- Nghĩa vụ ta đối với Chúa Thánh Thần phải thế nào ?

T-  Ta phải tôn trọng xác hồn ta là đền thờ Chúa Thánh Thần, phải xa lánh tội lỗi làm mất lòng Ngài, và mau mắn vâng theo ơn Ngài soi sáng.

H- Sau khi Đức Giêsu lên trời, ai tiếp tục công việc của Chúa nơi trần gian?

T-  Giáo Hội do Chúa đã sáng lập.

H-       Giáo Hội Công giáo gồm những ai?

T-  Giáo Hội Công Giáo gồm những tín hữu phục quyền đức giáo hoàng và các giám mục hợp nhất với Ngài.

H- Đức Giêsu đã trao cho Giáo Hội những quyền gì ?

T-  Đức Giêsu đã trao cho Giáo Hội quyền giảng dạy, thánh hóa và lãnh đạo các linh hồn.

H- Khi giảng dạy về Đạo Giáo Hội có sai lầm không ?

T- Khi giảng dạy những điều phải tin và những việc phải làm để đ­ược rỗi linh hồn thì Giáo Hội không sai lầm, vì có Chúa Thánh Thần soi sáng phù hộ cách riêng, nh­ư lời Đức Giêsu phán: “Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến với chúng con để dạy chúng con biết mọi sự thật” (Ga 16,13).

H- Giáo Hội thật của Đức Giêsu có những đặc tính nào ?

T-  Giáo Hội thật của Đức Giêsu có bốn đặc tính này: là duy nhất, thánh thiện, phổ quát và tông truyền.

H- Các thành phần trong Giáo Hội có hiệp thông với nhau không ?

T-  Tất cả các tín hữu còn sống hoặc đã qua đời mà đ­ược lên thiên đàng hay còn trong luyện ngục, đều hiệp thông với nhau trong mầu nhiệm Các Thánh cùng thông công.

H- Địa vị Đức Maria trong Giáo Hội thế nào?

T-  Đức Maria là Mẹ Giáo Hội vì đã sinh ra Đức Giêsu là Đầu Giáo Hội, Ng­ười cũng là tín hữu ­ưu tú nhất trong Giáo Hội, vì đã đón nhận Đức Kitô trư­ớc hết và đã trung thành sống Đức Tin hơn tất cả mọi ngư­ời.

H- Đức Maria đã cộng tác vào công việc cứu chuộc thế nào ?

T-  Ngư­ời đã sinh ra và dư­ỡng nuôi Đấng Cứu Thế, Ngư­ời cũng dự phần vào đau khổ của Chúa, nhất là trong những ngày Chúa chịu khổ nạn và chịu chết.

H- Đức Maria đ­ược những đặc ân nào ?

T-  Ngư­ời đư­ợc nhiều đặc ân cao quý, nhất là đư­ợc làm Mẹ Thiên Chúa, được vô nhiễm nguyên tội, đư­ợc trọn đời khiết trinh, và được lên trời hồn xác hiển vinh.

H- Đức Maria có là Mẹ Thiên Chúa không ?

T-  Đức Maria là Mẹ thật Thiên Chúa vì đã sinh ra Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người.

H- Đức Maria có là Mẹ chúng ta không ?

T-  Đức Maria là Mẹ thật chúng ta, vì Ngư­ời là Mẹ Giáo Hội, là một thân thể mầu nhiệm mà chúng ta là thành phần trong thân thể đó.

H- Nghĩa vụ của ta đối với Đức Maria phải thế nào ?

T-  Ta phải đặc biệt tôn kính mến yêu, nhất là sống theo các nhân đức của Ng­ười.

H- Tự sức riêng ta có thể chu toàn nghĩa vụ ngư­ời tín hữu không ?

T-  Không, vì cần có ơn Chúa hộ giúp nh­ư lời Đức Giêsu đã phán: “Không có Thầy các con không thể làm gì đư­ợc”.

H- Ta phân biệt mấy thứ ơn Chúa ?

T-  Ta phân biệt hai thứ: là ơn thánh hóa và ơn phù trợ.

H- Ơn thánh hóa là gì ?

T-  Là ơn siêu nhiên, Chúa Thánh Thần đổ vào linh hồn ta, cho ta đư­ợc thông công vào sự sống Thiên Chúa và trở nên nghĩa thiết với Ngài.

H- Khi nào ta mất ơn thánh hóa ?

T-  Khi ta phạm tội nặng.

H- Để đư­ợc lại ơn thánh hóa ta phải làm gì?

T- Ta phải lĩnh thụ phép Giải Tội hay là ăn năn cách hoàn hảo và muốn lĩnh thụ phép Giải Tội.

H- Ơn phù trợ là gì ?

T-  Là sức sống siêu nhiên Chúa ban cho ta tùy tr­ường hợp, giúp ta bảo vệ và tăng cư­ờng ơn thánh hóa, xa tránh tội lỗi và làm các việc lành.

H- Muốn đư­ợc ơn Chúa ta phải làm gì ?

T-  Ta phải cầu nguyện và lĩnh thụ các nhiệm tích.

H- Cầu nguyện là gì ?

T-  Cầu nguyện là nâng tâm trí lên cùng Chúa để thờ lạy cảm tạ Chúa, xin Chúa tha tội cùng ban ơn lành cho ta và cho ngư­ời khác.

H- Cầu nguyện có cần không ?

T-  Cầu nguyền rất cần, vì là nghĩa vụ của ta đối với Thiên Chúa, và là phương thế để xin những ơn ta thiếu thốn.

H- Ta phải cầu nguyện khi nào ?

T- Ta phải cầu nguyện luôn như­ Lời Chúa dạy, nhất là sớm tối, lúc bị cám dỗ, khi gặp đau khổ gian nguy.

H- Nhiệm tích là gì ?

T- Là những dấu bề ngoài chỉ và sinh ơn bề trong, Đức Giêsu đã lập ra để thánh hóa chúng ta.

H- Có mấy nhiệm tích ?

T-  Có bảy nhiệm tích: một là phép Rửa Tội, hai là phép Thêm Sức, ba là phép Mình Thánh, bốn là phép Giải Tội, năm là phép Xức Dầu, sáu là phép Truyền Chức, bảy là phép Hôn Phối.

H- Phép Rửa Tội là gì ?

T-  Là nhiệm tích tẩy xóa tội nguyên tổ và những tội riêng, tha thứ mọi hình phạt bởi tội, ban ơn thánh hóa, cho ta đ­ược làm con Chúa và con Giáo Hội.

H- Phép Rửa Tội có cần cho đ­ược rỗi linh hồn không ?

T-  Rất cần, như­ lời Chúa phán dạy: “Ai không sinh lại bởi nư­ớc và Thánh Thần thì không đư­ợc vào N­ước Thiên Chúa”.

H- Muốn Rửa Tội phải làm thế nào ?

T-  Phải chủ ý làm nh­ư Giáo Hội làm, rồi lấy n­ước lã đổ trên da đầu ngư­ời lĩnh thụ, vừa đổ vừa đọc: “Ta rửa mày nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”.

H- Phép Thêm Sức là gì ?

T-  Là nhiệm tích ban cho ta dồi dào Chúa Thánh Thần, và những ơn cần thiết để làm chứng nhân cho Đức Kitô trong đời sống và làm tông đồ trong Giáo Hội.

H- Phép Mình Thánh là gì ?

T-  Là nhiệm tích Đức Giêsu hiện diện thực sự dư­ới hình bánh rư­ợu, để tiếp tục dâng Mình tế lễ Chúa Cha như­ xưa trên thập giá và để ban Mình làm của nuôi linh hồn ta khi hiệp lễ.

H- Hiệp lễ nên thì đ­ược những ơn ích gì?

T-  Đư­ợc nhiều ơn ích, nhất là đ­ược kết hợp mật thiết cùng Đức Giêsu, đư­ợc thêm ơn thánh hóa, giảm bớt nết xấu, và đ­ược bảo đảm cho ta sống lại vinh quang ngày tận thế.

H- Muốn hiệp lễ nên phải làm gì ?

T-  Phần hồn phải sạch tội nặng và có ý ngay lành, phần xác phải nhịn ăn uống đủ một giờ tr­ước khi hiệp lễ, trừ nư­ớc lã uống lúc nào cũng đ­ược.

H- Phép Giải Tội là gì ?

T-  Là nhiệm tích tha những tội ta phạm từ sau khi rửa tội, cùng giao hòa ta với Thiên Chúa và Giáo Hội.

H- Muốn lĩnh thụ phép Giải Tội phải làm thế nào ?

T-  Phải xét mình, ăn năn quyết chừa, xưng tội và đền tội.

H- Trong những việc đó việc nào cần hơn?

T-  Ăn năn quyết chừa là việc cần hơn.

H-        Có mấy cách ăn năn tội  ?

T-  Có hai cách: là ăn năn cách hoàn hảo và không hoàn hảo.

H- Ăn năn cách hoàn hảo là gì ?

T-  Là lo buồn ghét tội vì mến Chúa là Đấn tốt lành yêu th­ương ta, nhất là đã cho Con Ngài chịu chết vì ta.

H- Ăn năn cách không hoàn hảo là gì ?

T-  Là lo buồn ghét tội, vì sợ thiệt phần linh hồn, nhất là sợ mất phúc thiên đàng và phải phạt trong hỏa ngục.

H- Phải x­ưng những tội nào ?

T-  Phải xư­ng hết mọi tội nặng, ai dấu một tội nặng mà thôi cũng không được khỏi tội nào, mà còn mắc tội phạm thánh.

H- Phép Xức Dầu là gì ?

T-  Là nhiệm tích nâng đỡ bệnh nhân phần hồn phần xác.

H- Phép Xức Dầu ban những ơn ích gì ?

T-  Phép Xức Dầu tẩy xóa tội lỗi và những vết tội còn sót lại thêm sức cho bệnh nhân được nhẫn nại chịu đau đớn, chống trả các cơn cám dỗ, có khi ban cho xác đ­ược khoẻ lại, nếu sức khoẻ làm ích cho linh hồn.

H- Khi nào phải lĩnh thụ phép Xức Dầu?

T-  Khi ngư­ời ta ốm nặng hoặc già nua kiệt sức.

H- Phép Truyền Chức là gì ?

T-  Là nhiệm tích ban quyền thiêng liêng, và những ơn cần thiết cho người chịu chức được làm các nhiệm vụ thánh cho xứng đáng.

H- Phép Hôn Phối là gì ?

T-  Là nhiệm tích ban cho hai ngư­ời nam nữ kết hôn nên vợ chồng trước mặt Chúa và Giáo Hội, cùng những ơn cần thiết trong bậc ấy.

H- Phép Hôn Phối buộc giữ điều gì?

T- Buộc phải giữ một vợ một chồng và phải ở trung thành với nhau cho đến chết.

H- Những ngư­ời kết hôn phải có mục đích gì?

T-  Phải có mục đích yêu thư­ơng nhau, đư­a đến việc sinh con cái và giúp đỡ nhau, nhất là phần linh hồn.

H- Tin Đạo và lĩnh thụ phép Rửa Tội có đủ cho đ­ược rỗi linh hồn không ?

T-  Không đủ, vì những ai đến tuổi khôn còn phải tuân giữ các giới luật Thiên Chúa và Giáo Hội.

H- Giới luật thứ nhất Thiên Chúa dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ nhất Thiên Chúa dạy: Phải thờ phư­ợng một mình Thiên Chúa, không đ­ược thờ loài nào khác ngoài Thiên Chúa, không đ­ược thờ Thiên Chúa cách bất xứng, không được làm những việc dị đoan như­ đơm cúng, đồng bóng bói khoa.

H- Giới luật thứ hai Thiên Chúa dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ hai Thiên Chúa dạy: Phải tôn kính danh Chúa, không được thề gian, nói phạm th­ượng hoặc lỗi điều khấn hứa.

H- Giới luật thứ ba Thiên Chúa dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ ba Thiên Chúa dạy: Phải thánh hóa ngày của Chúa, nghĩa là phải dùng ngày ấy mà làm việc lành phúc đức hơn ngày khác.

H- Giới luật thứ bốn Thiên Chúa dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ bốn Thiên Chúa dạy: Con cái phải thảo kính cha mẹ, cha mẹ phải săn sóc con cái, người dư­ới phải tôn trọng cấp trên, ng­ười trên phải yêu thương cấp d­ưới, ngư­ời dân phải phục vụ Tổ Quốc.

H- Giới luật thứ năm Thiên Chúa dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ năm Thiên Chúa dạy: Phải tôn trọng thân xác linh hồn của mình và của ng­ười khác, không đư­ợc giết mình hoặc giết ng­ười, không được đánh đập chửi rủa buồn giận thù ghét ai, không đ­ược làm dịp cho ai phạm tội.

H- Giới luật thứ sáu Thiên Chúa dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ sáu Thiên Chúa dạy: Phải giữ đức thanh tịnh trong hành động, không đ­ược làm sự dâm ô hay là nói năng, nhìn xem hoặc vui nghe những sự về đàng ấy.

H- Giới luật thứ bảy Thiên Chúa dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ bảy Thiên Chúa dạy: Phải tôn trọng của cải ng­ười khác không đ­ược lấy hoặc làm thiệt hại của ai cách bất công.

H- Khi đã lấy hoặc làm thiệt hại của ai cách bất công phải làm thế nào?

T-  Ngoài việc xư­ng tội, còn phải đền trả cho chủ của.

H- Giới luật thứ tám Thiên Chúa dạy điều gì?

T- Giới luật thứ tám Thiên Chúa dạy: Phải tôn trọng sự thật, tôn trọng danh dự ngư­ời khác, không đư­ợc nói dối, nói hành, vu khống, làm chứng gian, hoặc xét đoán sự xấu cho ai, không đ­ược tiết lộ điều buộc giữ kín.

H- Giới luật thứ chín Thiên Chúa dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ chín Thiên Chúa dạy: Phải giữ đức thanh tịnh trong tâm trí, không được nghĩ tưởng ­ước muốn sự dâm ô.

H- Giới luật thứ mư­ời Thiên Chúa dạy điều gì ?

T-  Giới luật thứ mười Thiên Chúa dạy: Không đ­ược tham muốn của ngư­ời ta hoặc âm m­ưu làm thiệt hại của ai cách bất công.

H- Giới luật thứ nhất và thứ hai Giáo Hội dạy điều gì ?

T-  Giới luật thứ nhất và thứ hai Giáo Hội dạy: Những ai đến tuổi khôn phải dự lễ và kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc.

H- Giới luật thứ ba Giáo hội dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ ba Giáo Hội dạy: Những ai đến tuổi khôn phải xưng tội một năm ít là một lần.

H- Giới luật thứ bốn Giáo Hội dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ bốn Giáo Hội dạy: Những ai đến tuổi khôn phải hiệp lễ trong Mùa Phục Sinh. Hiện nay ở nước ta Mùa Phục Sinh kể từ Lễ Tro đến Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.

H- Giới luật thứ năm Giáo Hội dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ năm Giáo Hội dạy: Những ai từ 18 đến hết 59 tuổi phải giữ chay những ngày chỉ định. Hiện nay là Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh.

H- Giới luật thứ sáu Giáo Hội dạy điều gì?

T-  Giới luật thứ sáu Giáo Hội dạy: Những ai từ 14 tuổi trở lên phải kiêng thịt các ngày Giáo Hội truyền. Hiện nay là Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh.

H- Muốn đ­ược hư­ởng phúc thiên đàng phải tin Đạo và giữ các giới luật cho đến bao giờ?

T- Phải tin và giữ cho đến chết.

H- Chết đoạn linh hồn sẽ ra sao ?

T- Linh hồn sẽ chịu phán xét về tội phúc mình đã làm ở trần gian.

H- Linh hồn có tội nặng sẽ đi đâu ?

T- Linh hồn có tội nặng sẽ xuống hỏa ngục ở với ma quỷ, chịu lửa thiêu đốt và nhiều hình khổ khác, nhất là phải lìa cách Chúa đời đời.

H- Nếu sạch mọi tội hoặc đã đền tội đủ linh hồn sẽ đi đâu  ?

T-  Linh hồn sẽ lên thiên đàng hưởng Chúa và đư­ợc hạnh phúc vô cùng.

H- Nếu đền tội chư­a đủ hay còn mắc tội nhẹ linh hồn sẽ đi đâu ?

T-  Linh hồn sẽ xuống luyện ngục chịu nhiều hình khổ, nhất là phải tạm xa cách Chúa cho đến khi đền tội xong mới đ­ược lên thiên đàng.

H- Ta có giúp đ­ược các linh hồn nơi luyện ngục không ?

T-  Trong mầu nhiệm Các Thánh cùng thông công, ta có thể cầu nguyện, lĩnh ân xá, làm việc lành phúc đức, nhất là xin lễ cho các linh hồn ấy chóng đ­ược lên thiên đàng.

H- Xác ngư­ời ta có sống lại không ?

T-  Đến ngày tận thế xác mọi ngư­ời sẽ sống lại để cùng với linh hồn chịu phán xét chung.

H-       Sau khi phán xét chung ng­ười ta sẽ đi đâu?

T- Sau khi phán xét chung ngư­ời lành sẽ lên thiên đàng h­ưởng phúc đời đời, kẻ dữ sẽ xuống hỏa ngục chịu phạt vô tận.

 

GIÁO LÝ HÔN NHÂN

H- Phải quan niệm thế nào về hôn nhân?

T- Phải quan niệm hôn nhân là việc quan trọng do Thiên Chúa sáng lập từ khi dựng nên loài ngư­ời.

H- Thiên Chúa sáng lập hôn nhân thế nào?

T- Theo Thánh Kinh thuật lại: “Sau khi dựng nên nguyên tổ A-đam, Thiên Chúa tác thành E-và và đưa đến cùng A-đam. Ông nói: “Đây là xư­ơng bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi. Từ nay, ngư­ời nam sẽ bỏ cha mẹ để gắn bó với vợ mình và cả hai nên một x­ương thịt” (St 2, 23-24). Đó là hôn nhân đầu tiên trong lịch sử loài người.

H-       Đức Giêsu đối với việc hôn nhân thế nào?

T- Đức Giêsu đã chúc phúc cho việc hôn nhân khi đi dự tiệc cưới Ca-na (Ga 2,1-12). Chúa đã nâng việc hôn nhân lên hàng nhiệm tích để ban ơn xác hồn. Chúa còn long trọng nhắc lại luật vĩnh đơn hôn, mà trải qua các thời đại người ta th­ường lãng quên và vi phạm.

H-       Luật vĩnh hôn là gì ?

T- Là luật buộc vợ chồng ở trung thành với nhau cho đến chết, không đ­ược lìa bỏ nhau.

H-       Luật đơn hôn là gì ?

T- Là luật buộc phải giữ một vợ một chồng, không đ­ược lấy người khác khi bạn mình còn sống.

H-       Đức Giêsu dạy thế nào về luật vĩnh đơn hôn ?

T- Chúa dạy rằng: “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết loài ngư­ời không đ­ược phân rẽ ra. Ai ly dị bạn mình mà lấy ngư­ời khác thì phạm tội ngoại tình, và ai lấy ngư­ời đã ly dị cũng phạm tội ngoại tình nữa” (Mt 19, 2-9).

H-       Tại sao luật Chúa buộc ngặt phải giữ một vợ một chồng, và phải trung thành với nhau cho đến chết?

T- Vì là điều kiện cần hẳn để xây dựng hạnh phúc gia đình và giáo dục con cái.

H-       Hôn nhân là việc rất quan trọng, liên hệ đến hạnh phúc đời này và phần rỗi đời sau, nên dự định kết hôn phải làm thế nào?

T- Phải cầu nguyện sốt sáng, suy nghĩ chín chắn, bàn hỏi cẩn thận, và tìm hiểu kỹ càng.

H-       Tại sao phải cầu nguyện ?

T- Vì sức loài ngư­ời có hạn cần có Chúa soi sáng mới khỏi sai lầm trong việc lựa chọn, cần ơn Chúa hộ giúp mới làm trọn nghĩa vụ, và đạt tới mục đích của hôn nhân.

H- Tại sao phải suy nghĩ chín chắn và bàn hỏi cẩn thận ?

T-  Vì kinh nghiệm cho thấy: vội vàng hấp tấp và quyết định một mình, không bàn hỏi với những ngư­ời khôn ngoan thì thư­ờng xảy ra sai lầm nghiêm trọng và nhỡ nhàng tai hại không hàn gắn được.

H- Ngoài việc cầu nguyện, suy nghĩ và bàn hỏi, ngư­ời dự hôn phải làm gì ?

T-  Phải tìm hiểu kỹ càng ngư­ời mình định kết hôn, nhất là về đức tin và đạo hạnh. Bởi vì có những điều kiện khác mà thiếu đức tin, kém đạo hạnh thì gia đình không thể hạnh phúc vững bền.

H- Khi tìm hiểu phải có thái độ thế nào?

T-  Phải có thái độ đoan trang đứng đắn, tránh những nguy hiểm đến đức thanh tịnh.

H- Dự hôn phải có ý lành nghĩa là gì?

T-  Nghĩa là phải có ý chung sống trong tình yêu, đưa đến việc sinh con cái và giúp đỡ nhau nhất là phần linh hồn.

H- Trong thời gian dự hôn và tìm hiểu phải làm gì ?

T- Phải ôn lại kinh bản giáo lý để tăng cường đức tin, và biết dạy Đạo cho con cái sau này.

H- Khi ngày hôn lễ tới gần phải làm gì?

T- Phải chuẩn bị linh hồn cẩn thận. Nếu có thể đ­ược nên dành ít là một ngày để làm việc tĩnh tâm tu đức.

H-       Trong ngày tĩnh tâm phải làm gì?

T- Phải suy nghĩ về bậc hôn nhân và những nghĩa vụ trong bậc đó. Phải dọn mình xưng tội sốt sáng, quyết tâm sống đời sống mới, nhất là phải cầu nguyện thật nhiều, xin ơn Chúa hộ giúp, vì nếu không có Chúa chúng ta không thể làm gì được.

H-       Việc kết hôn phải cử hành thế nào?

T- Phải cử hành tr­ước mặt linh mục có quyền chứng giám và hai người làm chứng theo nghi thức Giáo Hội quy định.

H-       Sau khi thành hôn phải làm gì?

T- Phải sớm chung sống và thương yêu nhường nhịn luôn luôn thực hành.

H-       Tình yêu vợ chồng phải thế nào ?

T- Tình yêu vợ chồng phải siêu nhiên, nghĩa là yêu vì Chúa không vì xác thịt, và phải sẵn sàng hy sinh để làm ích cho nhau, theo gư­ơng Đức Giêsu yêu Giáo Hội và hiến thân vì Giáo Hội.

H- Tại sao phải nh­ường nhịn nhau?

T-  Vì vợ chồng mỗi ng­ười đều có cá tính và những khuyết điểm riêng, đời sống gia đình lại gặp nhiều phức tạp, nên phải nhường nhịn nhau mới khắc phục được khó khăn và giữ được sự an vui trong cửa nhà.

H- Khi xảy ra sự bất thuận vợ chồng phải làm thế nào ?

T-  Phải sớm làm hòa với nhau, tuyệt đối không đ­ược nghe cha mẹ hay ngư­ời khác xúi giục mà chia rẽ nhau, vợ chồng một xương một thịt, phúc cùng h­ưởng họa cùng đau, ai đâu chia sẻ với mình.

H- Bổn phận vợ chồng đối với việc làm ăn phải thế nào ?

T- Ng­ười chồng phải đứng đầu việc làm ăn nuôi gia đình, nhưng phải bàn hỏi với bạn mình cho êm đẹp.

H- Của cải trong nhà phải tiêu dùng thế nào?

T- Của cải trong nhà là của chung, vợ chồng phải thỏa thuận với nhau trong việc tiêu dùng sao cho hợp tình hợp lý.

H-       Phải quan niệm thế nào về con cái?

T- Phải quan niệm con cái là của Chúa trao cho ta nuôi d­ưỡng và giáo dục để nên người tốt làm ích cho Giáo Hội và xã hội.

H- Trong thời gian thụ thai ngư­ời mẹ phải ở thế nào ?

T-  Phải siêng năng cầu nguyện cho mình và con mình đư­ợc an lành hồn xác, phải tránh những việc nặng nhọc có thể tổn hại đến thai nhi trong mình.

H- Sau khi sinh con phải làm thế nào ?

T- Phải sớm lo cho con đ­ược rửa tội, thường không để quá một tháng, nếu sảy thai hoặc con yếu quá thì phải rửa tội ngay.

H- Khi con khôn lớn cha mẹ phải làm gì ?

T- Phải tùy tuổi, tùy hoàn cảnh, tùy trình độ tiếp thu mà dạy nó những điều cần trong Đạo.

H-       Cha mẹ có đư­ợc ép con cái kết hôn không?

T-  Không đ­ược, vì Chúa không ban quyền cho cha mẹ trong vấn đề này. Kinh nghiệm cho biết nhiều hậu quả tai hại xảy ra bởi cha mẹ ép con cái kết hôn trái ý chúng.

H-        Để việc giáo dục con cái đem lại kết quả tốt, cha mẹ phải làm gì ?

T- Cha mẹ phải làm g­ương sáng cho con cái noi theo.

H-       Để gia đình hòa thuận an vui và đủ nghị lực v­ượt qua mọi nghịch cảnh phải làm gì?

T- Phải đọc kinh sáng tối, năng xư­ng tội hiệp lễ và tuân giữ các giới luật Chúa và Giáo Hội.

 

CA NHIỆM TÍCH

Chúa Giêsu lập bảy Nhiệm Tích

Chỉ và sinh ơn ích thiêng liêng

Tẩy trừ tha thứ tội khiên

Ban ơn thêm sức siêu nhiên dồi dào.

Nhiệm tích Rửa Tội

Phép Rửa Tội tha tội Nguyên Tổ

Và tội riêng từ có trí khôn

Ban ơn thánh hóa linh hồn

Cho vào Giáo Hội làm con Chúa Trời.

Vì cần cho hết mọi người

Nên khi khẩn cấp ai ai được làm

Miễn là phải có chủ tâm

Làm như Giáo Hội quen làm xưa nay.

Miệng đọc mô truyền tay đổ nước

Làm thật đúng nghi thức không sai

Cũng cần lựa chọn một người

Khôn ngoan đạo đức hẳn hoi đỡ đầu.

Nhận tên một vị Thánh nào

Để Người bảo trợ chuyển cầu cho ta.

Trẻ em khi mới sinh ra

Phải lo rửa tội sớm là tốt hơn

Còn người đã đến tuổi khôn

Phải tin và dọn linh hồn hẳn hoi.

Khi không lĩnh thụ phép này

Để được cứu rỗi còn hai con đường:

Một là tử đạo can trường,

Hai là mến Chúa vững vàng thiết tha

Phép Rửa tội buộc ta tuyên hứa

Bỏ ma quỷ thờ Chúa tận tình

Sống theo ánh sáng Đức Tin

Giữ ơn thánh hóa vẹn tuyền luôn luôn.

Nhiệm tích Thêm Sức

Thêm Sức là phép ban ơn

Cho ta lĩnh thụ Thánh Thần Ngôi Ba

Ban ơn soi sáng trí ta

Giúp ta hiểu Đạo tránh xa sai lầm

Ban ơn mạnh sức tinh thần

Giúp ta giữ Đạo kiên tâm nhiệt tình.

Muốn Thêm Sức phải dọn mình

Linh hồn sạch tội, học tin điều cần

Sau Thêm Sức phải siêng năng

Học thêm giáo lý tăng cường Đức Tin

Sẵn sàng vì Chúa hy sinh

Sẵn sàng làm chứng Đạo lành khắp nơi.

Nhiệm tích Mình Thánh

Mình Thánh là phép tuyệt vời

Bánh Thành Mình Chúa dưỡng nuôi linh

hồn.

Hồn ta muốn được khoẻ luôn

Siêng năng hiệp lễ là nguồn sức thiêng

Những ai hiệp lễ vẹn tuyền

Được hợp vững bền cùng Chúa Giêsu.

Hiệp lễ tội nặng phải trừ

Kiêng ăn nhịn uống một giờ đừng quên.

Gần hiệp lễ giục lòng tin

Cậy trông yêu mến thực tình ăn năn

Lên hiệp lễ phải nghiêm trang

Đứng quỳ ngay thẳng dịu dàng nết na.

Sau khi Chúa ngự lòng ta

Lúc ấy thật là giây phút linh thiêng

Kính thờ cảm tạ Cha hiền

Hiến dâng hồn xác cầu xin ơn lành,

Quyết tâm mến Chúa tận tình

Giữ ơn nghĩa Chúa trung thành nơi ta.

Nhiệm tích Giải Tội

Phép Giải Tội thứ tha tội lỗi

Phạm từ ngày rửa tội về sau

Dù ta tội lỗi đến đâu

Nhờ phép nhiệm mầu cũng được sạch tinh.

Muốn xưng tội phải xét mình

Tự kiểm chân thành theo các giới răn.

Xét mình rồi phải ăn năn

Tùy theo hai cách hoàn toàn hay không

Ăn năn phải tự tâm hồn

Lo buồn vì đã bội ơn Cha lành

Vì thương Chúa chịu đóng đanh

Vì suy hỏa ngục khiếp kinh hãi hùng.

Quyết tâm chừa tội đến cùng

Vào tòa thú tội khiêm cung thật thà.

Khi linh mục giải tội ta

Ăn năn xin Chúa thứ tha khoan hồng.

Sau khi được giải tội xong

Kịp thời đền tội hết lòng tạ ơn.

Nhiệm tích Xức Dầu

Xức Dầu nhiệm tích bệnh nhân

Tẩy trừ tội lỗi giảm cơn đau phiền

Khi thấy bệnh trở nên trầm trọng

Hoặc già nua sức sống suy tàn

Kịp thời nhắc nhủ bệnh nhân

Đón mời linh mục đến ban phép cần.

Bề ngoài dọn một cái bàn

Phủ khăn đặt tượng nến đèn hai bên

Một bình nước phép đừng quên

Một ly nước lã để bên cạnh bàn

Bề trong cần giúp bệnh nhân

Dọn mình xưng tội như lần kết chung.

Nếu không thể thú xưng tội lỗi

Phải giục lòng thống hối thiết tha

Nên mời thân thuộc gần xa

Vì tình bác ái tới nhà thông công.

Xức Dầu khi lĩnh thụ xong

Bệnh nhân bình tĩnh cậytrông Cha lành

Phó dâng đau đớn của mình

Hợp cùng Chúa chịu khổ hình đóng đinh

Để làm của lễ hy sinh

Lập công đền tội trong tình mến yêu.

Nhiệm tích Truyền Chức

Phép Truyền Chức cho người lĩnh thụ

Được quyền hành và đủ ơn riêng

Để làm nhiệm vụ thiêng liêng

Thờ Chúa uy quyền phục vụ giáo dân.

Chúng ta phải ân cần cầu nguyện

Để Chúa sai thợ đến ruộng Người.

Kính yêu giúp đỡ vâng lời

Theo Hàng Giáo Phẩm trong đời siêu nhiên.

Nhiệm tích Hôn Phối

Hôn Nhân Thiên Chúa lập nên

Từ khi sáng tạo tổ tiên loài người

Đến khi Thiên Chúa Ngôi Hai

Xuống thế làm người để cứu muôn dân

Đoái thương đưa việc hôn nhân

Lên hàng Nhiệm tích ban ơn xác hồn.

Chúa truyền luật vĩnh đơn hôn

Một chồng một vợ luôn luôn trung thành

Dự hôn phải có ý lành

Sản sinh con cái chân thành giúp nhau.

Khi tìm hiểu trước sau phải giữ

Luôn đứng đắn tránh sự không hay

Đừng ham kén chọn sắc tài

Mà quên căn bản là đời đức tin

Đức tin đạo hạnh là nền

Để xây hạnh phúc vững bền hôn nhân.

Để thành hôn cũng cần phải giữ

Là không mắc ngăn trở hôn nhân

Khi ngày hôn lễ tới gần

Linh hồn chuẩn bị ân cần đừng quên.

Vào đời mới phải nên người mới

Mới phần hồn cải tội tu thân

Hai bên khi đã thành hôn

Yêu thương nhường nhịn luôn luôn thực hành.

Dưỡng dục con cái tận tình

Thánh hóa gia đình theo hạnh Thánh Gia.

Phần kết

Đời ta từ lúc sinh ra

Đến ngày lìa thế bao là khó khăn

Chúa thương lập bảy phép cần

Như phương tiếp tế lương thần cho ta.

Chúng ta nguyện thiết tha yêu mến

Và siêng năng tìm đến mạch thiêng

Để bồi dưỡng sức siêu nhiên

Ngày càng vững mạnh tiến lên Quê Trời.

TÓM LƯỢC CUỘC ĐỜI CHÚA KITÔ

Trước đây đã hai mươi thế kỷ

Thiên Chúa sai một vị sứ thần

Tới Na-za-rét một thành

Vào nhà Trinh nữ hiền lành nết na.

Là Đức Maria đầy phúc

Để báo tin Bà được thụ thai

Và sinh ra một con trai

Chính là Đấng sẽ cứu đời độ nhân.

Đức Bà hỏi sứ thần cho biết

Việc xảy ra chi tiết thế nào?

Bởi vì Bà chỉ ước ao

Giữ mình trinh khiết cốt sao vẹn toàn

Để giải thích thiên thần nói tiếp:

Bà thụ thai do phép Thánh Linh

Sinh con mà vẫn đồng trinh

Vì là Con Chúa cao minh đời đời.

Bà hãy đặt tên này cho trẻ

Là Giêsu Cứu Thế siêu nhiên

Trên trời dưới đất mọi miền

Không tên nào cứu trừ tên của Người.

Đức Bà đáp vâng lời thiên sứ

Vì tôi là tỳ nữ Chúa Trời

Tức thì Thiên Chúa Ngôi Hai

Xuống lòng Trinh nữ làm người như ta

Sau đó Maria vội vã

Đi qua miền núi đá rừng hoang

Thăm I-za-bét họ hàng

Có thai sáu tháng rõ ràng cao niên.

Khi tới nơi, Người liền chào chúc

Chị họ Người cảm xúc lạ lùng

Vì Gioan trẻ trong lòng

Được đầy ơn Chúa nhảy mừng sướng vui

Sau mấy tháng trong đời Thượng vị

Au-gút-tô cai trị Rô-ma

Lệnh truyền dân số kiểm tra

Phải về nguyên quán để mà khai tên.

Giuse thuộc tổ tiên Đa-vít

Đang ở Na-za-rét làm ăn

Với Maria bạn trăm năm

Về Be-lem chốn xa xăm quê nhà.

Khi tới nơi trời vừa xẩm tối

Maria lại tới ngày sinh

Giuse cố gắng tận tình

Tìm nơi tạm trú đêm thanh cho Người

Nhưng quán trọ không nơi nào chứa

Đành phải ra hang đá ngoại ô

Là nơi quen nhốt chiên bò

Nghèo hèn hôi hám gió lùa sương sa.

Nửa đêm Maria Trinh nữ

Sinh Hài Nhi cứu độ muôn dân

Bà ôm con bọc trong khăn

Đặt trên máng cỏ ân cần dấu yêu.

Trong miền đó có nhiều mục tử

Đang thức đêm canh giữ đoàn chiên

Sứ thần hiện đến báo tin

Hôm nay Cứu Chúa giáng sinh làm người.

Nhiều thiên sứ từ trời bay xuống

Hợp cùng nhau chúc tụng vang lời

Sáng danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho người thiện tâm

Sau lúc đó thiên thần biến khỏi

Đoàn chăn chiên vội tới Be-lem

Họ liền thấy một trẻ em

Bọc khăn nằm máng ở bên Mẹ Người

Họ vồn vã ngỏ lời thăm hỏi

Đoạn ra về phấn khởi vui mừng

Đức Bà sau đó hiến dâng

Con trong Đền Thánh để vâng luật truyền.

Si-mê-on cũng liền vào tới

Được ơn trên cụ nói tiên tri

Về tương lai Chúa Hài Nhi

Cùng về những nỗi sầu bi Mẹ Người.

Những ngày đó có ngôi sao lạ

Dẫn ba nhà học giả phương Đông

Đến thờ lạy Chúa Hài Đồng,

Tiến dâng mộc dược, vàng dòng, nhũ hương.

Ở Sa-lem tiểu vương Hê-rốt

Sợ Hài Nhi sẽ đoạt ngôi mình

Ông truyền giết trẻ sơ sinh

Hai năm trở xuống toàn thành Be-lem

Nhưng thiên sứ nửa đêm hiện tới

Bảo Giuse chỗi dậy kịp thời

Đem Con trẻ với Mẹ Người

Trốn sang Ai-cập ở nơi an toàn.

Mấy năm sau sứ thần lại dặn

Hãy trở về nguyên quán bản hương

Giuse mau mắn lên đường

Về Na-za-rét xóm làng quê xưa.

Kể từ đó tới ba mươi tuổi

Trẻ Giêsu sống với gia đình

Nguyện cầu sớm tối nhiệt tình

Vâng lời cha mẹ tận tình con ngoan.

Nghề thợ mộc làm ăn sinh sống

Cam khó nghèo chịu đựng gian nan

Càng thêm tuổi lại càng ngoan

Trước người trần thế, trước nhan Chúa Trời.

Năm Giêsu lên mười hai tuổi

Đi thủ đô cùng với Mẹ Cha

Để mừng đại lễ Vượt Qua

Sau khi lễ tất ông bà chia tay.

Đi ngày đường mới hay lạc Chúa

Trở lại ngay vất vả tìm tòi

Ba ngày sau mới thấy Người

Hỏi nghe lẽ Đạo ở nơi Đền thờ.

Mẹ Người nói tựa như than thở:

“Con Mẹ ôi ! Con có biết không ?

Mẹ Cha lo lắng tìm Con

Ba ngày ròng rã chẳng còn thiết chi !”

“Tìm tòi Con làm gì hở Mẹ ?

Việc Cha Con, Con để tâm lo

Ông Bà không biết đó ư”

Mẹ Người ghi nhớ suy tư trong lòng.

Đoạn Chúa về sống cùng Cha Mẹ

Qua tháng ngày lặng lẽ yên vui.

(Đứng đọc kinh Tin)

+ + +

Đến năm tuổi độ ba mươi

Chúa ra khởi sự giảng lời Phúc Âm.

Để chuẩn bị nhân tâm đón Chúa

Có Gio-an Tẩy giả tiền hô

Bắt đầu trước Chúa Kitô

Giảng khuyên dân chúng chăm lo việc hồn.

Ông Gio-an một hôm gặp Chúa

Đến xin làm phép rửa cho Người

Sau khi lên khỏi nước rồi

Bỗng nhiên Người thấy màn trời mở ra.

Thánh Linh Chúa Ngôi Ba cực trọng

Tựa chim câu đỗ xuống trên Người

Chúa Cha lên tiếng từ trời :

“Đây Con yêu dấu đời đời của Ta”.

Hiện tượng đó thật là khôn tả

Hàm ý thiêng cao cả tuyệt vời

Giêsu Chiên Đức Chúa Trời

Gánh tội loài người tự nguyện hy sinh.

Rồi sau đó Thần Linh Thiên Chúa

Đưa Ngài lên hoang địa nhịn chay

Sa-tan đến cám dỗ Ngài

Nhưng Ngài chống cự nó ngay tức thì.

Rời hoang địa Chúa đi giảng Đạo

Khuyên mọi người cải tạo tâm hồn

Bởi vì Nước Chúa đã gần

Hãy mau thống hối canh tân cuộc đời.

Một hôm Chúa lên ngồi trên núi

Giảng mở đầu Tám mối phúc chân:

“Phúc ai nghèo khó tinh thần

Bởi vì Nước Chúa là phần của riêng.

Phúc cho ai dịu hiền hòa nhã

Được Đất thiêng làm của vững bền

Phúc ai khóc lóc ưu phiền

Bởi vì sẽ được ủi an dồi dào

Phúc cho ai khát khao công lý

Được trên ban phỉ chí no đầy.

Phúc ai hay xót thương người

Được ơn thương xót từ trời xuống cho

Phúc ai có tâm tư trong sạch

Được thấy Chúa nguồn mạch tốt xinh

Phúc ai xây dựng hòa bình

Được làm Con Chúa quang vinh đời đời.

Phúc ai vì Đạo ngay chịu khổ

Được Nước Trời làm sở hữu riêng”.

Ai nghe Chúa cũng ngạc nhiên

Thấy Người như Đấng tự quyền phán ra.

Nhờ Người dạy chúng ta ý thức

Thiên Chúa là Cha cực khoan nhân

Bởi tình thương xót vô ngần

Đã cho Con Một xuống trần cứu ta.

Được sạch tội giao hòa với Chúa

Làm Con Ngài, ơn nghĩa bao la

Ta cần mến Chúa như cha

Yêu thương đồng loại như là anh em

Cùng ôm ấp một niềm tin tưởng

Mong ngày sau được hưởng trường sinh

Chúa đòi ta ở trọn lành

Theo gương Cha Cả hiển vinh trên trời.

Luật xưa cấm giết người đồng loại

Chúa cấm luôn cả mọi căm thù

Luật xưa cấm việc dâm ô

Chúa còn cấm cả ước mơ chẳng lành

Nếu con mắt ta sinh dịp tội

Hãy khoét đi cho khỏi hiểm nguy

Vì lành hai mắt ích gì

Nếu sa hỏa ngục còn chi tốt lành.

Xưa cho phép đoạn tình phu phụ

Nay Chúa truyền vĩnh thú đơn hôn

Một chồng một vợ luôn luôn

Trọn đời chung sống vui buồn đói no

Người xưa bảo ghét thù yêu bạn

Chúa không cho giới hạn hẹp hòi

Chúa truyền yêu hết mọi người

Nguyện cầu cho cả những ai địch thù.

Khi ta đến bàn thờ dâng lễ

Mà nhớ ra có kẻ mất lòng

Hãy về hòa giải cho xong

Rồi sau dâng lễ mới trông nhận lời.

Đong đấu nào cho người đồng loại

Chúa sẽ đong đấu ấy cho ta

Theo lời kinh nguyện Lạy Cha

Thứ tha sẽ được thứ tha nhân từ.

Phải ra sức làm cho người khác

Những sự ta mong ước cho mình

Và đừng chủ ý thi hành

Sự ta không muốn ai giành cho ta.

Phải ăn ở thật thà ngay thẳng

Nhưng cũng cần tinh sáng khôn ngoan

Những ai vất vả nhọc nhằn

Hãy tìm nơi Chúa ủi an hộ phù

Học với Chúa hiền từ khiêm nhượng

Tâm hồn ta sẽ hưởng bình an

Bởi vì ách Chúa dịu dàng

Gánh Người êm ái nhẹ nhàng biết bao.

Ai cậy mình trước sau bị hạ

Ai hạ mình được Chúa nâng lên

Được mời đừng chọn ngồi trên

Kẻo sau tụt xuống bị thiên hạ cười.

Chúa là sáng những ai theo Chúa

Khỏi tối tăm không sợ lạc sai

Đất trời biến chuyển không ngơi

Nhưng lời Chúa dạy đời đời không qua

Những lời Chúa nếu ta tuân giữ

Sẽ như người thực sự khôn ngoan

Xây nhà trên đá an toàn

Mưa tuôn không sợ, suối tràn không lo.

(Đứng đọc kinh Cậy)

+ + +

Để dân chúng tiếp thu cho dễ

Có nhiều lần Chúa kể dụ ngôn

Nghĩa là so sánh giản đơn

Rút trong đời sống bình dân hàng ngày.

Với mục đích trình bày giáo lý

Sao cho vừa tâm trí mọi người

Đơn sơ nhưng lại tuyệt vời

Đưa ra từ đất tới nơi siêu phàm.

Như dụ ngôn vua làm tiệc cưới

Cho kẻ đi mời gọi khách ăn

Tượng trưng Thiên Chúa khoan nhân

Gọi ta vào Đạo ái ân muôn trùng.

Dụ ngôn những cỏ lùng với lúa

Nhằm nói lên lành dữ sống chung

Dữ nhờ gương sáng đổi lòng

Lành qua chịu đựng lập công lâu dài

Dụ ngôn một chàng trai phung phá

Nhằm nói lên Cha Cả khoan dung

Thương người tội lỗi vô cùng

Kiên tâm chờ đón sẵn lòng thứ tha.

Chúa truyền dạy vào qua cửa hẹp

Cửa rộng đưa tới kiếp trầm luân

Nếu ta lợi cả trần gian

Linh hồn thiệt mất, hỏi rằng ích chi?

Người ta sẽ lấy gì thay thế

Linh hồn mình nếu để hư vong

Chúa truyền ta phải gắng công

Sống đời hoàn thiện mới trông Thiên đàng.

Muốn theo Chúa phải mang khổ giá

Từ bỏ mình yêu Chúa mọi ngày

Vững tin cậy Chúa an bài

Thương ta hơn cả chim trời cỏ hoa.

Phải cầu nguyện thiết tha bền bỉ

Xin sẽ cho, gõ sẽ mở ra

Của Xê-za trả Xê-za

Những gì của Chúa thì ta trả Người.

Không ai được làm tôi hai chủ

Coi Chúa Trời tiền của như nhau

Bởi vì tiền của ở đâu

Lòng ta ở đó lo âu đêm ngày.

Phải tìm Nước Chúa Trời trước nhất

Còn sự gì người tất thêm cho

Của trần đừng mải tích thu

Mối ăn mọt gặm công phu phí hoài.

Phải tỉnh thức như người đầy tớ

Đợi chủ về cửa mở ngay ra

Bởi vì Chúa viếng thăm ta

Như người kẻ trộm đêm khuya bất thần.

Để làm chứng cho dân tin tưởng

Nhận biết Người là Đấng Cứu Tinh

Chúa Kitô lấy quyền mình

Làm nhiều phép lạ uy danh lẫy lừng.

Bao người bệnh vui mừng được khỏi

Mù được trông phong hủi được lành

Phong ba tức khắc thanh bình

Chính Ngài chết đoạn phục sinh huy hoàng.

Có lần Chúa cũng loan báo trước

Sự tương lai vượt sức trí ta

Việc Sa-lem bị Rô-ma

Bao vây thiêu hủy biến ra tro tàn.

Việc Phê-rô ba lần chối Chúa

Việc Người qua khổ giá phục sinh

Những điềm rùng rợn khiếp kinh

Báo ngày chung thẩm công minh sau  này

Nhưng đặc biệt tương lai Giáo Hội

Luôn vững bền vượt mọi thời gian

Mặc cho hỏa ngục cản ngăn

Không ngừng tiến triển lan tràn khắp nơi.

Để minh chứng những lời Chúa dạy

Còn bao gương vĩ đại Chúa làm

Đời Người sống rất siêu phàm

Không ai bắt được lỗi lầm cỏn con.

Linh hồn Chúa tựa vườn thơm nức

Trăm thứ hoa nhân đức tuyệt vời

Kính yêu Cha Cả trên trời

Mến thương nhân loại trọn đời hy sinh.

Vì Chúa biết Tin Lành cứu độ

Cần có người công bố khắp nơi

Chúa cầu nguyện suốt đêm dài

Sáng ra Chúa chọn mười hai Sứ Đồ.

Trong số đó Phê-rô ngư phủ

Chúa đặt làm nguyên thủ Giáo đoàn

Tựa như tảng đá vững vàng

Sức quyền hỏa ngục không làm chuyển lay.

Về những kẻ nghe Lời khuyên giảng

Ta nhận ra nhiều hạng khác nhau

Dân nghèo lao động khổ đau

Vui nghe lời Chúa kêu cầu Chúa thương.

Bọn Biệt phái và hàng Trưởng tế

Cùng những người vai vế trong dân

Lòng đầy tham vọng phàm trần

Họ ghen ghét Chúa chủ tâm giết Người.

Ba năm Chúa giảng Lời hằng sống

Tựa như người gieo giống tung rơi

Quả sinh nhiều ít tùy nơi

Vệ đường, đá sỏi, bụi gai, đất mầu.

Người thiện chí tiếp thu Lời Chúa

Đem thực hành sinh quả gấp trăm

Còn người xấu lại để tâm

Cố tình từ chối Phúc Âm Nước Trời.

(Đứng đọc kinh Kính Mến)

+ + +

Cuộc đời Chúa những ngày sau hết

Đã diễn ra nhiều việc phi thường

Đớn đau bi thảm khôn lường

Dạt dào lênh láng tình thương vô bờ.

Ngày thứ nhất Chúa cho môn đệ

Đến làng kia cốt để mượn lừa

Chúa cưỡi lên vẻ hiền từ

Tiến đi về phía đền thờ Sa-lem

Đám quần chúng với niềm hy vọng

Ra rước Ngài long trọng tưng bừng

Người vẫy lá kẻ reo mừng

Đấng nhân danh Chúa đến cùng chúng tôi.

Tới gần thành Chúa rơi hàng lệ

Thương xót dân sau sẽ điêu linh

Vì không biết Chúa thăm mình

Vì không đón nhận Tin lành bằng yên

Đến thứ năm Chúa truyền môn đệ

Đi dọn nơi ăn lễ Vượt Qua

Theo như luật cũ đề ra

Nhớ ngày giải phóng cha ông đã truyền

Trước khi ăn Chúa liền chỗi dậy

Rửa chân cho hết thảy Tông Đồ

Việc xong Chúa nói lý do

Để cho môn đệ làm như Chúa làm

Trong bữa ăn Chúa cầm lấy bánh

Truyền phép thành Mình Thánh của Người.

Rồi nâng chén rượu trên tay

Chúa truyền phép rượu thành ngay Máu

Người.

Máu Tân ước đời đời vĩnh cửu

Đổ chan hòa để cứu muôn dân

Khỏi vòng nô lệ tà thần

Khỏi sa hỏa ngục trầm luôn muôn đời.

Các Tông Sứ vâng lời Chúa dạy:

“Đây Mình Ta nhận lấy mà ăn

Việc này sau phải ân cần

Làm lại nhiều lần để nhớ đến Ta”.

Đoạn rồi Chúa thiết tha yên ủi

Các Tông Đồ trước nỗi chia ly

Mai ngày Chúa sẽ khuất đi

Thánh Linh sẽ đến phù trì ủi an.

Các ông buồn, thế gian phấn khởi

Nhưng cơn buồn sẽ đổi thành vui

Các ông cần hợp với Người

Như cành hợp với thân cây vững bền.

Điều răn mới Chúa truyền Môn Đệ

Yêu mến nhau như thể Chúa yêu

Đó là dấu hiệu cao siêu

Chứng minh Đạo Chúa hơn nhiều tài ba

Môn đệ có Giu-đa phản bội

Định nộp Người cầu lợi riêng tư

Hắn đi gặp gỡ kẻ thù

Bàn mưu bắt Chúa sao cho yên hàn.

Ăn bữa đoạn, ngày tàn đêm tới

Chúa liền đi đến núi Cây Dầu

Sứ đồ lẽo đẽo theo sau

Chúa truyền tỉnh thức nguyện cầu thiết tha.

Để kiên trì không sa cám dỗ

Nhẹ lòng thần, lòng thú nặng nề

Chọn ba môn đệ cùng đi

Chúa vào vườn Giệt-ma-ni nguyện cầu.

Linh hồn Chúa khổ sầu đến chết

Mình mồ hôi lẫn huyết tuôn ra

Chúa càng cầu nguyện thiết tha

Khẩn van xin Đức Chúa Cha khoan hồng

Lời cầu khẩn hòa cùng nước mắt

Nguyện Chúa Cha thương cất chén này

Nhưng đừng theo ý Con đây

Một theo Thánh ý Cha thời tốt hơn.

Đang khi Chúa phải cơn hấp hối

Các Tông Đồ mệt mỏi lo buồn

Mắt nặng trĩu ngủ bên vườn

Mặc dù Chúa bảo thức luôn với Người.

Một Thiên sứ từ trời hiện xuống

Yên ủi Người anh dũng hiến thân

Lát sau thấy một đội quân

Giu-đa hướng dẫn bất thần tới nơi.

Hắn tiến lại hôn Người làm hiệu

Cho chúng bắt và điệu Người đi

Sứ đồ khi ấy khác gì

Đoàn chiên mất chủ sợ nguy trốn liền.

Bắt Người đoạn, thoạt tiên chúng điệu

Đến nhà ông trưởng cựu An-na

Rồi sang giáo trưởng Cai-pha

Ông này đứng dậy để tra vấn Người.

“Đây, nhân danh Chúa Trời hằng sống

Ông phải khai cho chúng ta tường:

Ông Con Thiên Chúa thật chăng?”

Chúa liền tuyên bố rõ ràng công khai:

“Sự thật đúng như ngài nói đấy

Đến ngày sau sẽ thấy Con Người

Ngự bên hữu Đức Chúa Trời

Trên mây hiện xuống sáng ngời uy linh”.

Cai-pha xé áo mình mà nói:

“Hắn lộng ngôn cần hỏi gì thêm!”

Mọi người phụ họa kêu lên:

“Hắn ta đáng chết để đền lộng ngôn!”

Suốt đêm bọn ác ôn canh giữ

Thay đổi nhau làm khổ nhục Người

Phê-rô đêm ấy bồi hồi

Vào sân giáo trưởng đến ngồi sưởi chung

Một đầy tớ hỏi ông có phải:

Là môn đệ Người ấy hay không ?

Phê-rô liền sợ cuống cuồng

Chối thề mình chẳng biết ông bao giờ.

Ngay lúc đó gà vừa cất gáy

Nhắc Phê-rô nhớ lại lời Thầy

Ông liền thổn thức ra ngoài

Ăn năn khóc lóc đắng cay vô cùng.

Rồi sáng sớm hội đồng Do-Thái

Quyết nghị rằng: Người phải hy sinh

Nhưng mà họ phải đệ trình

Rô-ma xét duyệt thi hành mới xuôi.

Họ đem Chúa đến nơi Phi-lát

Là toàn quyền thay mặt Rô-ma

Ông này khi đã thẩm tra

Thấy rằng vô tội muốn tha cho Người.

Để dân bớt cáo nài đe dọa

Phi-lát sai đem Chúa đánh đòn

Dưới làn roi vọt ác ôn

Mình Người rách nát, tâm hồn đắng cay

Chúng còn lấy vòng gai sắc nhọn

Đội đầu Người dữ tợn khôn lường

Chúng chơi tấn kịch tôn vương

Quỳ gối nhạo rằng: “Vạn tuế Đức Vua”.

Đoạn vây Chúa chúng đua nhau đánh

Nhổ vào nhan cực thánh của Người

Giật que sậy Chúa cầm tay

Đập trên đầu Chúa cho gai lọt vào.

Phi-lát muốn làm sao tha Chúa

Đem Người lên trước cửa công đường

Thân hình thiểu não đáng thương.

“Đây là Người ấy quốc Vương các người”

Dân nghe thấy cáo nài la hét:

“Đem đóng đanh, đem giết nó đi!”

“Ông ta có tội tình gì ?”

“Hắn ta xưng Đế, tội chi nặng bằng!”

Vì thấy chúng hung hăng quá độ

Phi-lát đành nhượng bộ cho xuôi

Rửa tay đoạn phó trao Người

Cho quân lính điệu lên đồi Can-vê.

Chúa im lặng vác cây Thập Giá

Sức kiệt hao gục ngã nhiều lần

Đến nơi Chúa bị lột trần

Tứ chi đanh đóng, toàn thân phơi bày.

Dưới tia nắng mặt trời thiêu đốt

Ruồi muỗi bâu châm hút máu hồng

Miệng khô cổ khát vô cùng

Tai nghe chế giễu mắt trông địch thù.

Chúa đau khổ mặc dù hết sức

Nhưng Người cam chịu nhục đến cùng

Người xin Cha Cả khoan dung

Thứ tha cho họ vì chưng họ lầm.

Maria đứng gần Thập Giá

Để cảm thông cùng Chúa hiến thân

Vâng nghe lời Chúa trao ban

Nhận làm Từ Mẫu Gio-an sứ đồ.

Vào quãng độ ba giờ chiều đó

Chúa gục đầu dâng phó linh hồn

Trong tay Cha Cả chí tôn

Đoạn kêu lớn tiếng đau buồn tắt hơi.

Đất rung động mặt trời mất sáng

Màn đền thờ xé thẳng làm hai

Như thương Chúa cả muôn loài

Hiến thân chịu chết cho người trần gian

Một tên lính đứng gần thập giá

Hắn thấy là Người đã tắt hơi

Lấy đòng đâm thủng Tim Người

Máu hòa với nước tức thời chảy ra.

Chiều tối đến dăm ba thân thích

Tháo xác Người rửa sạch vết thương

Táng trong huyệt đá vội vàng

Địch thù cắt lính canh hang táng Người.

(Quỳ đọc kinh Ăn năn tội)

+ + +

Ngày thứ nhất lúc trời chưa rạng

Một Thiên Thần mặt sáng chói lòa

Từ trời xuống lật đá ra

Lính canh khiếp ngã tưởng là chết ngay

Mấy phụ nữ đồng thời tới đó

Với chủ tâm thăm mộ thánh Người

Sứ Thần bảo các bà hay:

Chúa vừa sống lại ở đây không còn.

Mau loan báo cho môn đệ biết

Chúa Phục sinh, thần chết bại rồi

Các ông sẽ được thấy Người.

Nỗi buồn tiêu tán, niềm vui chan hòa.

Chiều tối ấy trong nhà đóng kín

Chúa Kitô hiện đến bất thần

Chúc chào môn đệ bình an

Trao quyền tha tội ân ban từ Trời.

Sau buổi đó nhiều nơi nhiều lúc

Chúa Kitô tiếp tục hiện ra

Có lần cho phép Tô-ma

Sờ tay vào Chúa để mà vững tin

Lần khác Chúa hiện trên bờ biển

Hỏi Phê-rô có mến Chúa không ?

Phê-rô đượm vẻ đau buồn

Khiêm nhường thưa lại, rằng: “Con mến

Thầy”.

Chúa vui vẻ bỏ ngay tội cũ

Đặt ông làm Mục Tử Đoàn Chiên

Chiên con chiên mẹ mọi miền

Đều ở dưới quyền thủ trưởng Phê-rô

Bốn mươi ngày kể từ sống lại

Chúa Kitô lại tái hiện ra

Đưa môn đệ tới đồi kia

Dặn dò lần trót trước khi lên trời:

“Chúng con đi khắp nơi giảng dạy

Rửa tội cho hết thảy mọi người

Từ nay cho đến hết đời

Ta ở mọi ngày với chúng con liên”.

Rồi sau đó Chúa lên khỏi đất

Cho tới khi Người khuất trong mây

Sứ đồ ngây ngất nhìn trời

Thiên Thần hiện đến bảo thôi trở về.

Chúa vừa mới khuất đi khỏi thế

Ngày tận chung Người sẽ tái lâm

Trên mây sáng láng vô ngần

Thưởng công phạt tội người trần khắp nơi.

+ + +

Phần kết

(Đứng đọc)

Chúng ta học cuộc đời của Chúa

Đều thấy gương muôn thuở sáng ngời

Chúa sinh làm mốc chia đôi

Thời gian lịch sử mọi đời nhớ ghi.

Chỉ có Chúa kiên trì thực hiện

Một cuộc đời thánh thiện siêu phàm

Chỉ lời giáo huấn Phúc Âm

Cao siêu vĩnh cửu gieo mầm Phục sinh.

Chỉ có Chúa hiến mình tuyệt đối

Vì xót thương chuộc tội cho đời

Chỉ mình Chúa đã chết rồi

Tự quyền sống lại đúng lời tiên tri.

Chỉ có Chúa khuất đi khỏi thế

Vẫn được hằng yêu quý khắp nơi

Với thời gian thảy mờ phai

Giêsu cứu thế đời đời vinh quang.

CHƯƠNG TRÌNH TRẺ EM XƯNG TỘI – HIỆP LỄ LẦN ĐẦU

Các kinh phải học:

Dấu Thánh giá – Kinh Tin – Kinh Cậy – Kinh Kính Mến – Kinh Ăn năn tội – Kinh Lạy Cha – Kinh Kính Mừng – Kinh Sáng Danh – Kinh Xin soi sáng – Kinh Mười điều răn – Kinh Sáu điều răn – Kinh Dọn mình hiệp lễ – Kinh Cám ơn Hiệp lễ.

TÔI TIN

Tôi tin một Chúa Ba Ngôi

Dựng nên vạn vật đất trời bao la

Ngôi Nhất là Đức Chúa Cha

Ngôi Hai Con Chúa, ngôi Ba Thánh Thần

Ngôi Hai sinh xuống gian trần

Làm người chịu chết hiến thân cứu đời

Chết rồi sống lại lên trời

Sau này lại xuống sáng ngời uy linh

Thưởng lành phạt dữ công bình

Lành lên hưởng phúc trường sinh thiên

đàng

Dữ vào hỏa ngục khóc than

Ở cùng ma quỷ nghiến răng đời đời.

BẢN MẪU XƯNG TỘI

Thưa cha, con xưng tội lần đầu, con đã xét mình và ăn năn tội rồi, bây giờ con đến xưng tội:

Thứ nhất: Con lười đọc kinh mỗi tháng độ 10 lần.

Thứ hai: Con nói truyện vô phép trong nhà thờ mỗi tháng độ 10 lần.

Thứ ba: Con không dự lễ ngày Chúa nhật mỗi tháng độ 2 lần.

Thứ bốn: Con không vâng lời cha mẹ mỗi tháng độ 10 lần.

Thứ năm: Con cãi đánh nhau mỗi tháng độ 10 lần.

Thứ sáu: Con nói tục mỗi tháng độ 10 lần.

Thứ bảy: Con ăn cắp mỗi tháng độ 2 lần.

Thứ tám: Con nói dối mỗi tháng độ 10 lần.

Thưa cha, ấy là bấy nhiêu tội con nhớ, còn tội nào quên sót, con muốn xưng cả, xin cha xét và giải tội cho con.

Lưu ý: Đây chỉ là bản mẫu cơ bản, giúp các em dựa vào đó để xét mình và xưng tội lần đầu. Sau này, khi các em khôn lớn, các em sẽ tự ý xét mình theo các giới luật của Thiên Chúa và Giáo Hội, cùng những việc bổn phận phải làm. Thấy sai lỗi điều gì, các em sẽ thành thực thú xưng, còn điều gì không sai lỗi thì thôi.