Chúa nhật 3 mùa Chay

Bài đọc 1    Xh 17, 3-7

Cho chúng tôi uống nước đi.

Trích sách Xuất hành.

3 Thời đó, trong sa mạc, dân khát nước nên đã kêu trách ông Mô-sê rằng: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?” 4 Ông Mô-sê kêu lên cùng Đức Chúa:  “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!” 5  Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. 6 Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống.” Ông Mô-sê đã làm như vậy trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en. 7 Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là thử thách và gây sự, vì con cái Ít- ra-en đã gây sự và thử thách Đức Chúa mà rằng: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?”

 

Ðáp ca        Tv 94, 1-2.6-7a.7b-9

Đ. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người  phán: “Các ngươi chớ cứng lòng”.

Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.

Đ. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người  phán: “Các ngươi chớ cứng lòng”.

Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.

Đ. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người  phán: “Các ngươi chớ cứng lòng”.

Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: “Các ngươi chớ cứng lòng, như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức, và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm”.

Đ. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người  phán: “Các ngươi chớ cứng lòng”.

 

Bài đọc 2    Rm 5, 1-2.5-8

Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho ta.

Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.

1 Thưa anh em, một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. 2 Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. 3 Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; 4 ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. 5 Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. 6 Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết  vì chúng ta. 7 Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. 8 Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.

 

Tung hô Tin Mừng        x. Ga 4, 42.15

Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng cứu độ trần gian, xin ban cho con nước hằng sống, để con không bao giờ khát nữa.

Tin Mừng   Ga 4, 5-42

Mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

5 Khi ấy, Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. 6  Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” 8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-  ri, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. 10 Đức Giê-su trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” 11 Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? 12  Chẳng lẽ ông lớn  hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” 13 Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. 14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”

15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: “Thưa ông, xin ông cho  tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” 16 Người bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” 17 Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng.” Đức Giê-su bảo: “Chị nói: “Tôi không có chồng” là phải, 18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.” 19 Người phụ nữ nói với Người: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. 20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” 21 Đức Giê-su phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. 22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. 23  Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. 24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” 25 Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” 26 Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”

27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: “Thầy cần gì vậy?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy?” 28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: 29 “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” 30  Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.

31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.” 32 Người nói với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” 33 Các môn đệ mới hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” 34 Đức Giê- su nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. 35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! 36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. 37 Thật vậy, câu tục ngữ “kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng! 38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”

39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê- su, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. 40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với  họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. 41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. 42  Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và  biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”

 

Hoặc bài đọc ngắn        Ga 4, 5-15.19b-26.39a.40-42

Mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

5 Khi ấy, Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. 6 Ở đấy, có  giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” 8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-  ri, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. 10 Đức Giê-su trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” 11 Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? 12  Chẳng lẽ ông lớn  hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” 13 Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. 14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”

15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: “Thưa ông, xin ông cho  tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” 19b Người phụ nữ lại nói: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ.

20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” 21 Đức Giê-su phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. 22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. 23 Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. 24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” 25 Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” 26 Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”

27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: “Thầy cần gì vậy?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy?” 28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: 29 “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” 30  Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.

31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.” 32 Người nói với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” 33 Các môn đệ mới hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” 34 Đức Giê- su nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. 35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! 36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. 37 Thật vậy, câu tục ngữ “kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng! 38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”

39a Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê- su, vì lời người phụ nữ làm chứng. 40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. 41   Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. 42 Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu  độ trần gian.”

 

Bài giảng của Đức Hồng y Phaolô Giuse

Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại một cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu và một người phụ nữ Samari.

Sau đây, ta đi vào chi tiết cuộc đàm thoại đó và rút ra những bài học hữu ích cho linh hồn.

Khi người phụ nữ ra tới giếng, thoạt nhìn cách ăn mặc của Chúa. Bà liền nhận ra Chúa là một người Do Thái chính cống và tự nhiên mối ác cảm nổi lên trong lòng bà. Khi Chúa xin nước, bà lợi dụng ngay cơ hội đó để tỏ thái độ chua chát với người Do Thái: “Gớm ! Ông là người Do Thái, mà lại xin nước tôi là người Samari. Ông biết xưa nay hai dân tộc có liên lạc với nhau đâu”. Có lẽ bà muốn nói: xưa nay các ông khinh miệt chúng tôi cơ mà! Sao bây giờ lại xin nước tôi? Mặc dù nói lời kiêu kỳ chanh chua đó, Chúa Giêsu không chấp lại còn ôn tồn nói: “Nếu bà biết ơn Thiên Chúa và người xin nước bà là ai, thì chính bà sẽ xin Người và Người sẽ cho bà nước mạch hằng sống”. Lời Chúa làm cho bà thắc mắc và đã đưa bà vào cuộc đối thoại cởi mở hơn. Kỳ thực, việc Chúa xin nước chỉ là cớ gợi cho bà xin ơn sủng mà Chúa muốn đem đến cho bà và dân làng bà. Nếu bà nhận biết đây là dịp tốt thì chính bà phải xin cùng Chúa mới đúng.

Nói đến nước mạch hằng sống, người phụ nữ tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi: “Ông không có gì múc mà giếng thì sâu, ông lấy đâu ra nước mạch?” Chúa trả lời: “Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa, nhưng nước Tôi cho sẽ biến thành cái mạch trong lòng nó và vọt lên cho tới sự sống đời đời”. Nước mạch mà Chúa Giêsu nói đây là ơn thánh sủng, là sự sống thiêng liêng phát xuất từ trời, có sức biến chúng ta thành người trời, và đưa chúng ta về trời… Ơn thánh sủng có thể ví như nước chảy từ mạch trên cao đổ xuống, tất nhiên vọt lên cao. Mạch đó chính là Chúa Thánh Thần, Ngài ở trên trời cao nên ơn thánh sủng Người đổ xuống cũng đưa ta từ đất vọt lên trời, nghĩa là lên tới sự sống đời đời.

Mặc dù không hiểu những lời Chúa nói, người phụ nữ cũng đổi thái độ, tỏ ra khiêm tốn lịch sự hơn, bà nói: “Xin ông cho tôi nước đó để tôi khỏi khát và không còn phải ra đây múc nước nữa”.

“Xin ông cho tôi nước đó”. Chúa chỉ đợi bà nói câu ấy thôi, bởi vì tuy Chúa sẵn sàng ban ơn, nhưng Người không ban một cách phù thủy. Chúa tôn trọng tự do con người, nên Chúa đợi người ta xin, Chúa mới ban. Hơn nữa, để chấp nhận ơn Chúa, con người phải chuẩn bị tâm hồn. Vì thế, Chúa bảo người phụ nữ: “Hãy về gọi chồng bà ra đây”. Bà trả lời: “Tôi không có chồng”. Chúa nói tiếp: “Bà nói đúng, vì trước kia bà đã có năm đời chồng, nhưng đã chết, còn người đang ở với bà không phải là chồng bà”. Thế là từ câu chuyện xin nước, Chúa đa gợi cho người phụ nữ quay về với bản thân, nghĩ đến đời sống luân lý của bà, một điều không bao giờ bà nghĩ tới. Bà vừa hổ thẹn và hết sức cảm phục. Hổ thẹn vì nghe đến hôn nhân bất hợp pháp của mình, cảm phục vì thấy mặc dù xa lạ chưa gặp bao giờ, mà Chúa cũng biết đời sống tư của bà, nhưng không tỏ vẻ khinh chê bà.

Tuy nhiên, để chữa thẹn, bà nói lảng sang chuyện khác: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng trên núi này, còn ông thì lại bảo: Giêrusalem mới là nơi thờ phượng, chẳng biết đằng nào đúng?”

Nhân câu hỏi có tính cách lảng chuyện đó, Chúa Giêsu chuyển lên một nguyên tắc rất quan trọng về sự thờ phượng Thiên Chúa. Ngài nói: “Sẽ đến giờ, không phải trên núi này hay ở Giêrusalem mà người ta sẽ thờ phượng Thiên Chúa, nhưng những kẻ thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng trong tinh thần và sự thật”. Chúa có ý nói: “Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình ở khắp mọi nơi không lệ thuộc vào một nơi nào, Người cũng sẽ là Cha chung của cả nhân loại, không thiên vị một dân tộc nào. Vì thế, việc thờ phượng đích thực, không ở tại những hình thức bên ngoài, không ở tại những trang trí lộng lẫy, những cuộc rước kiệu long trọng, những kinh đọc dài lê thê, những lễ vật dâng hiến dồi dào… nhưng sự thờ phượng đích thực ở tại tinh thần và sự thật. Những ai thờ phượng Thiên Chúa phải giữ ý hướng ngay lành, tâm hồn trong sạch, khiêm tốn, phải sống phù hợp với chân lý là Thánh ý Chúa tỏ ra trong các giới luật của Người. Thánh Vịnh 50 dạy rõ điều ấy như sau: “Chúa không thích hy sinh hiến tế, cũng không ưa của lễ toàn thiêu, nhưng mà của lễ Chúa yêu, là lòng thống hối đớn đau khiêm nhường”.

Tới đây, người phụ nữ Samari tỏ ra hết sức cảm phục. Bà quan niệm Chúa không phải là một người tầm thường. Ngài phải là một tiên tri và có khi còn hơn tiên tri nữa. Bà liên tưởng đến Đấng Cứu Thế mà bà cũng như dân tộc bà mong đợi. Bà nói: “Tôi biết rằng Đấng Mesia (nghĩa là Đấng Cứu Thế), khi nào đến sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Chúa Giêsu thấy tâm hồn bà đã được chuẩn bị, và đã đến lúc có thể tỏ mình ra cho bà. Chúa liền nói: “Đấng Cứu Thế chính là tôi đang nói với bà đây”. Nghe thế, người phụ nữ vui mừng quá, bỏ quên cả vò nước, quên cả việc múc nước, vội vàng chạy về làng, loan báo tin mừng cho dân chúng: “Anh chị em hãy ra mà xem, một người đã nói với tôi tất cả mọi sự tôi đã làm, có khi người đó là Đấng Cứu Thế chăng”. Thế là cuộc đàm thoại đã kết quả tốt đẹp, biến một người tội lỗi thành một tông đồ loan báo Chúa Kitô.

 Người phụ nữ Samari gặp Chúa có một lần mà đã đổi hẳn cuộc đời, trước cô là người vô tín, sau trở nên một tín hữu, trước cô là một người tội lỗi, sau trở nên một tông đồ nhiệt thành.

Phần ta, từ khi rửa tội được gặp Chúa nhiều lần và nhiều cách, nhất là khi ta lên hiệp lễ, nhưng tâm hồn và đời sống của ta chưa đổi thay đáng kể, là vì ta yếu đức tin, thiếu cố gắng. Trong mùa Chay thánh này, chúng ta phải sửa lại thái độ đó, và ra sức cắt bỏ những chường ngại vật là tội lỗi và các tính mê nết xấu để ta được ơn cải thiện đời sống và được vui mừng uống nước nơi suối Đấng Cứu Độ ngày lễ Phục sinh sắp tới.

 

GIẾNG TÌNH YÊU HẰNG SỐNG (Lm. Đaminh Nguyễn Xuân Trường)

Giếng là nơi người ta đến lấy nước uống, rồi gặp gỡ trò chuyện và nảy sinh tình yêu với nhau. Như thế, giếng cũng mang đặc điểm giống nhà thờ là nơi chúng ta đến uống nước hằng sống, gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau, rồi nảy sinh tình mến Chúa yêu người. Chúa Giêsu thỏa mãn cơn khát yêu thương của nhân loại.

  1. Khát nước.Nước đem sự sống. Không có nước thì chết. Nên khát nước là dấu chỉ diễn tả khao khát sự sống. Tuy nhiên, nước mới chỉ mang lại sự sống cho con người như sự sống sinh học của cây cối và động vật. Con người có sự sống cao hơn nên khao khát nhiều thứ mãnh liệt hơn như: khát tiền bạc, khát quyền lợi, khát danh vọng, khát tự do, khát công lý, khát hạnh phúc, và nhất là khát tình yêu.
  2. Khát tình.Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa là tình yêu. Nên trong sâu thẳm lòng người luôn có một cơn khát vô biên, đó là khao khát tình yêu, điều này cũng được diễn tả thi vị trong câu ca dao: “Qua bờ giếng, liệng bờ ao. Nước thì không khát, khát khao duyên nàng.” Câu chuyện bên bờ giếng cho thấy người phụ nữ không chỉ khát nước, mà còn khát tình người, tình Chúa. Tình yêu Chúa không phải là thỏa mãn những thèm thuồng khoái cảm thân xác mà là sự no thỏa hạnh phúc tâm hồn. Tình yêu Chúa không như trung tâm mua sắm nhằm thỏa mãn cơn khát sở hữu vật chất mà như một trung tâm từ thiện mở lòng cho đi, đem hạnh phúc cho người khác.

Thánh Augustinô đã thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, tâm hồn con luôn khao khát cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Thánh nhân khao khát Chúa, còn tôi đang khao khát điều gì? Khát nước tự nhiên thì mở vòi, mở miệng uống, nhưng khát nước hằng sống Giêsu thì phải mở Lời Chúa, mở tâm lòng mới uống được. Amen.

 

Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: Người Do thái thường khinh bỉ và thù nghịch với người Samari. Còn Ðức Giêsu tìm cách tiếp xúc, rao giảng và yêu thương họ. Ngài không kỳ thị và cho họ nhận ra: họ cũng là đối tượng được Thiên Chúa yêu thương. Tất cả mọi người đều được ơn Cứu Ðộ. Ðó là sứ vụ Ðức Giêsu luôn thao thức và mong được hoàn tất. Ðó là lương thực cần thiết để Ngài thi hành trọn ý Cha.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người không trừ một ai, với điều kiện chúng con biết nhìn nhận mình tội lỗi, là hư vô và tin vào Chúa. Người phụ nữ Samari, từ người được xin nước trở thành người đi xin nước. Bà xin nước sự sống của Chúa, khi đã nhận ra và tin rằng Chúa là Ðấng Kitô.

Xin Chúa biến đổi chúng con để từ tình trạng tội lỗi, chúng con được tái sinh trong nước sự sống của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Mạch nước vọt đến sự sống đời đời”.